Tắt đèn kể chuyện ma
(Tập 1)
![[IMG]](https://lh5.googleusercontent.com/-dAm4XriZ5xc/UVt7sZMgjtI/AAAAAAAADnU/sS_fohxIivE/s809/STENT%2520Forum02042013.jpg)
Tác giả: Loan Bảo Quần
Dịch giả: Hoàng Quyên
Giá bìa: 126.000 ₫
Kích thước: 13 x 21,5 cm
Ngày xuất bản: 15-11-2012
Công ty phát hành: Đinh Tị
Nhà xuất bản: NXB Văn Học
Giới thiệu
Cuộc sống luôn tồn tại những điều khó có thể lý giải, được đồn thổi từ người này sang người khác, từ năm này qua năm khác và dần phủ lên chúng lớp vỏ bí ma mị. "Tắt đèn kể chuyện ma" là cuốn sách tổng hợp những câu chuyện liêu trai, cổ quái như vậy. Nhưng thay vì khai thác yếu tố ma mị vốn là thế mạnh của những câu chuyện liêu trai, tác giả Loan Bảo Quần với uyên bác và tinh tế của mình khéo léo kết hợp những kiến thức đông tây kim cổ và kể lại những câu chuyện ấy theo khía cạnh khác đời thường hơn, thực tế hơn. Có thể là những lý giải khoa học khách quan, có khi lại là những suy diễn chủ quan của góc nhìn tác giả, có những câu chuyện buồn bã thê lương, cũng có những mẩu chuyện vô cùng hài hước. Nhưng dù là câu chuyện nào cũng đều khiến độc giả kinh ngạc và thích thú vì những bí mật được hé mở trong đó.
Thủy quỷ, nịch quỷ, cương thi, trành quỷ, sát quỷ, thảo trái quỷ, khảo trường đại đầu quỷ, quỷ thất tình lục dục, quỷ hóm hỉnh, hài hước; vấn đề miếng ăn, chỗ ở, cái mặc của quỷ; vấn đề cái chết của quỷ... Thế giới ma quỷ rốt cuộc có dáng vẻ ra sao?
Tắt Đèn Kể Chuyện Ma là thế giới của những câu chuyện liêu trai và cổ quái, là giao hoà của tri thức đông tây kim cổ tích tụ từ ngàn năm. Đằng sau lớp vỏ ma mị ấy chứa những gì?
Tự nghĩ trong thiên hạ, người viết văn nhiều, mà người nhặt nhạnh những thứ phế liệu để kết thành trang viết quả thực cũng hiếm. Vì tuổi già ập đến, được dịp thảnh thơi làm mấy việc nhàn rỗi, khâu vá thêm vào để làm thành cái áo, tuy rằng cầm tà áo trước ngực mà nhìn thấy cả khuỷu tay, nhưng mặc cho áo ngắn mà thân lệch. có rận để bắt ta chuyện ma quỷ, tập hợp thành tập truyện để được dâng lên bạn đọc.
<img class="aligncenter" style="border: 0px solid #cccccc; clear: both; cursor: pointer; max-width: 560px; min-width: 10px; padding: 4px 0px 0px;" alt="" src="http://i363.photobucket.com/albums/oo75/shishi32_2009/1199_200803061011102jiYM.gif" border="0" />
(TGĐA) - Nếu ai thích thể loại truyện kinh dị hay truyện về ma quỷ có thể tìm đọc cuốn Tắt đèn kể chuyện ma của tác giả Loan Bảo Quần. Đây là cuốn sách mang tính bác học, đọc để tìm hiểu, chiêm nghiệm hơn là đọc giải trí như như những tác phẩm văn học kinh dị khác.
Trung Quốc trải qua bao nhiêu năm lịch sử cũng ngần ấy năm, những câu chuyện ma được hình thành và phát triển theo nhiều hướng khác nhau, mỗi vùng mỗi khác. Nhưng chung quy lại, dân gian Trung Quốc sáng tạo ra những câu chuyện ma đầy liêu trai, kỳ bí, hấp dẫn và bất ngờ. Các loại quỷ như thủy quỷ, nịch quỷ, cương thi, trành quỷ, sát quỷ, khảo trường quỷ, quỷ thất tình lục dục, quỷ hóm hỉnh, hài hước… hay các vấn đề như miếng ăn, chỗ ở, cái mặc của quỷ; vấn đề cái chết của quỷ đều được dân gian xây dựng chi tiết và ngày càng phong phú. Phải chăng con người khi bị hổ ăn thịt trở thành quỷ để giúp lão hổ bắt những người khác? Có đúng là những người chết đuối cần phải tìm được người thế mạng mới có thể siêu thoát và được đầu thai sang kiếp khác?
Trường thi vốn là nơi uy nghiêm để tìm ra những nhân tài phục vụ đất nước, lẽ nào cũng có can thiệp hay quấy rối của ma quỷ? Hay khi con người chết đâu, về đâu, xuống địa ngục hay lên thiên đường? Địa ngục là nơi như thế nào, có ai ở đó, con người sau khi chết xuống đó như thế nào, phải qua những đâu? Tất cả những điều đó đều có trong các câu chuyện dân gian và được truyền từ đời này qua đời khác, được ghi chép vào sách của các học giả từ nhiều triều đại qua, để cùng với các câu chuyện truyền miệng trong dân gian, chúng trở thành những tư liệu quý cho chúng ta ngày nay tìm hiểu về tín ngưỡng của ông cha ta ngày trước.
Tác giả Loan Bảo Quần tập hợp những câu chuyện như thế và viết cuốn sách Tắt đèn kể chuyện ma dưới góc nhìn và phân tích, những lời nhận xét hóm hỉnh, hài hước nhưng kém phần sâu sắc của chính tác giả.
Vậy thế giới tâm linh huyền bí về ma quỷ rốt cuộc có dáng vẻ ra sao?
Bạn đọc lần theo gợi mở từng câu chữ, quay ngược thời gian trở về với hàng ngàn năm trước, vén bức màn bí lên để từng bước khám phá thế giới u minh huyền bí của người Trung Quốc xưa và nay!
Tác phẩm Tắt đèn kể chuyện ma do Đinh Tị books liên kết với Nhà xuất bản Văn học ấn hành.
<img class="aligncenter" style="border: 0px solid #cccccc; clear: both; cursor: pointer; max-width: 560px; min-width: 10px; padding: 4px 0px 0px;" alt="" src="http://i363.photobucket.com/albums/oo75/shishi32_2009/1199_200803061011102jiYM.gif" border="0" />
[/B]
MsoNormal" style=" Chương 1: Phần mở đầu[/B]
Mặc dù rận là loài côn trùng chẳng lấy gì làm tốt đẹp, nhưng cái việc “Bắt rận” mà được viết mặt giấy lại được coi là thứ nghệ thuật hết sức tao nhã. Điều này cũng rất đỗi tự nhiên như chuyện Vương Cảnh Lược đến bắt rận mà cứ thản nhiên như . Thành thử dùng ý này để đưa vào tên sách lại khiến người ta có cảm giác thú vị như Lý Bạch say sưa uống rượu họa thơ vậy.
Nhưng nghĩ kỹ lại ở đời loài rận cũng chẳng phải hoàn toàn “vô duyên” như thế. ngày mùa đông của hơn bốn mươi năm trước, khi tôi cùng với quân đoàn kéo về từ phương Bắc, người chẳng có gì chỉ còn sót lại những con rận từ ba tỉnh Giang Tô, Chiết Giang và An Huy theo về, nếu cộng thêm loạt học sinh, sinh viên từ các tỉnh khác, ngoại trừ đảo Đài Loan, các dân tộc rận từ hai mươi chín tỉnh thành và các khu tự trị có thể tề tựu đông đủ nhà. Nhưng hiểu sao lúc ấy chúng tôi lại hề cảm thấy có cái gì đó ngứa ngáy, khó chịu, có lẽ do lũ rận đông đúc lúc này còn bận bịu tranh vương tranh tước với nhau, chẳng còn để ý tới những việc khác, hoặc cũng có thể do “tư tưởng đấu tranh giai cấp” trong chúng tôi lúc đó đạt đến độ nghiêm chỉnh, lại đúng vào thời khắc tâm hồn nhạy cảm “xúc động” khiến cho da thịt tê dại đến cực độ, chẳng còn biết đến cảm giác gì khác nữa. Nhưng khi vừa bước tới cổng nhà, mẹ tôi ngay lập tức bắt lột hết quần áo mặc người xuống, sau đó đun mấy nồi nước sôi lớn, nhúng nhúng lại quần áo vào nước sôi sung sục bếp tới mấy lần, lúc này chỉ thấy hàng ngàn, hang vạn con rận trôi nổi mặt nước bỏng rẫy, thuận theo dòng nước mà chìm xuống, họ hang nhà rận từ hai mươi chín tỉnh thành và các khu tự trị cùng sinh tử với nhau như thế. Giờ ngẫm lại những kỷ niệm hồi đó vẫn thấy có nhiều điều tiếc nuối: Mặc dù sống chung với rận suốt thời gian dài, vậy mà tôi lại bỏ lỡ cái duyên “bắt rận làm vui”, quả thực là đáng tiếc!
Cho nên, hai chữ “bắt rận” ở đây chỉ là mượn cái ý vị trong câu “bắt rận hổ khách” của Vương tiên sinh từ hàng ngàn năm về trước để trang điểm cho vẻ bề ngoài của câu chữ, thực chất hoàn toàn chỉ là chuyện phiếm mà thôi.
Ý nghĩa thực ở đây là “ chuyện ma”. Nhưng “ chuyện ma” lại là việc “ dễ mà làm khó”! Tô Đông Pha khi bị lưu đày ở Hoàng Châu [1] thích nhất là chuyện ma, chính những câu chuyện ma quỷ ấy lại chất chứa trong đó bao nhân tình thế thái, bao đời được phản ánh cách gián tiếp mà sâu sắc. Trong tác phẩm của mình, Tô Đông Pha viết:Bắc khách nhược lai hưu vấn , tây hồ huy hảo mạc ngâm thi.[/I] Trong bài thơ tặng Quách công phụ có đoạn:Mặc hướng giang biên lộng minh nguyệt, dạ thâm vô số thải châu nhân[/I]. Thơ viết ra phải để ngâm, trăng cao phải để thưởng, gian tĩnh mịch như vậy phải để chuyện ma chuyện gì? Nhưng vào thời đó vẫn chưa thịnh hành lối chuyện ma quỷ, chưa có chuyện xây lên những “ô đài quỷ ám”. chuyện ma quỷ cũng chỉ là những ý sâu xa, chỉ là những gợi nhắc thoáng qua mà thôi. Nhưng từ những gợi nhắc sơ sài, qua quýt trong gần ngàn năm trước ấy, đến thế kỷ XX lại trở thành đề tài hấp dẫn được viết thành truyện.
[1] Hoàng Châu: địa danh ở tỉnh Hồ Bắc[/I]
Những trò cấm ma bài quỷ trong những năm 50 của thế kỷ trước, chỉ là những mê tín dị đoan thuần túy, chứ tuyệt đối có chút dụng ý sâu xa nào khác, những suy nghĩ hồi đó cũng chỉ là những tình cảm tốt đẹp theo hình thức “ ghét kiểu trẻ con”. Tôi còn nhớ như in kỷ niệm hồi khi xem kịchCửu canh thiên,[/I] vở kịch dọa cho tôi sợ đến nỗi cả đêm ngủ được, chỉ cần nhắm mắt lại là hình ảnh con ma đầu lại lên, chạy đến kêu oan. Vì vậy, để đưa ra quyết định cấm đoán những hình thức mê tín mù quáng kiểu như thế này, người ta cũng phải suy tính lại đến đau đầu bạc tóc cả rồi, mục đích là để hạn chế những nỗi sợ hãi đến mất hết lý trí như vậy. Nhưng đến năm 1957, thời kỳ “hữu khuynh”, sân khấu lại xuất hiệnHọa bì[/I], câu chuyện ma đầy tính xác giới theo kiểuLiêu trai chí dị, [/I]biết bao bộ phim như thế xuất cùng thời điểm, trong các rạp chiếu phim toàn là những phim câu khách kiểu như vậy (số còn lại thuộc kiểu phim hài được ăn khách cho lắm). Sau khi xem xong, đêm về hễ cứ nhắm mắt lại là những con quái “mặt xanh nanh dài” lại lên, so với con quỷ đầu lần trước còn đáng sợ hơn nhiều. Nhưng hình ảnh ác quỷ giả dạng mỹ nhân là ám chỉ những “phần tử hữu khuynh”, rất có thể từ ám ảnh, sợ hãi mà chúng ta lại càng hiểu hơn về tàn nhẫn trong tư tưởng của phần tử quái hữu này. Việc mượn chuyện ma quỷ để gửi gắm những ý sâu xa từ đây lại trở thành “bút pháp độc đáo” trong nghệ thuật, đó chính là dụng tâm sâu sắc: Đừng nghĩ rằng tôi chuyện ma quỷ là chỉ để tới ma quỷ, mà qua chuyện ma quỷ tôi muốn tới chuyện con người, lấy ma quỷ để răn đe con người. Nhưng làm thế nào để biết người ta mượn chuyện ma để chuyện người? Đến năm 1959, để công kích lại phái phản động trong và ngoài nước, loạt những câu chuyện cổ vũ cho tinh thần “Bài trừ ma quỷ” đồng loạt xuất các diễn đàn. Cùng lúc đó, tư tưởng “mỗi người dạ” của các phần tử trí thức có cơ hội được bộc lộ ràng, vì thế những vở kịch nhưLý Tuệ Nương, Tạ Dao Hoàn[/I] lại có cơ hội được trình diễn. Trong vở kịch, Lý Tuệ Nương nguyền rủa Giả Tự Đạo, qua đó chỉ trích quốc vương Hải Thụy. Nhưng có vở kịch lại cổ xúy cho tư tưởng ca ngợi “loài ma quỷ vô hại”. Điều này chẳng phải là công nhiên đề xướng tư tưởng dùng ma quỷ để “chống đối Đảng” sao? ra khi tới chuyện ma quỷ, người đều có mục đích sâu xa cả. Và người cầm cờ khởi xướng là tác giả của tác phẩm ký tên Lương Bích Huy được đăng trênBáo văn hối[/I] của Thượng Hải, chủ đề ma quỷ vốn cấm kỵ, đến nay chính thức bắt đầu được thừa nhận, lúc đó là vào năm 1963. Có người cho rằng đây là cuộc “đại cách mạng trong văn hóa nghệ thuật” mà trước nay chưa từng có, góp tiếng “tước ngôi Hải Thụy” trong vở kịch trước đây. Điều đó cho thấy chủ đề “ma quỷ” chiếm giữ vị trí quan trọng như thế nào trong cuộc đấu tranh tư tưởng, có lẽ đó cũng là điều hi hữu từ xưa đến nay.
Cho đến khi “kết thúc thời kỳ thái bình thịnh trị”, nhà vua vô cùng phẫn nộ, lệnh cấm ma quỷ bỗng trở nên nghiêm ngặt hơn. Nhưng có lẽ lệnh cấm đó còn hữu hiệu, vì ngay cả người có quyền lực cách mạng tối cao, thực tế đối với những nhu cầu cơ bản về vật chất và tinh thần của người dân cũng sao đảm bảo được, vì vậy quyền lực bị mất hoặc xoay chuyển cũng là điều dễ thấy. Sau năm 68, tôi về sống ở nông thôn. Ban ngày tôi chuyên tâm làm công việc phê bình, buổi tối lại chuyên tâm viết truyện ma quỷ, hai công việc chẳng có liên quan gì đến nhau nhưng lại cùng chung bối cảnh của công cuộc Đại cách mạng văn hóa. Những người dân sống quanh tôi, họ hoàn toàn chẳng hiểu gì về chuyện hồn ma và “cách mạng văn hóa” (Ngược lại, họ chẳng sợ cái gì cả, thậm chí họ còn tỏ thái độ khinh miệt, tinh thần mới, cách khác, họ cho những việc tôi làm chẳng khác nào là “chuyện rỗi hơi”). Nhưng những đề xuất nông cạn của tôi lại gặp gỡ họ ở cái “nhu cầu tâm linh” huyền bí. Đương nhiên tôi thể có cái tài làm cho ma quỷ sống lại, càng có năng khiếu dùng chuyện ma mà lấp đầy cái bụng trống rỗng của họ, chỉ là tích góp mỗi ngày chút ít kinh nghiệm từ trời đất, làm trận đại phê bình và với người cũng thích đấu tranh, nhưng ngược lại đạt được cảm giác thích thú như mong đợi. Thế chuyện ma quỷ để tìm cảm giác gì ở trong đó, chỉ là thú vị, kích thích, mà còn có cảm giác thể có trong thực tế, cảm giác khiến người ta vừa sợ hãi lại vừa thích thú đến mê hoặc. Nhưng cũng thể đề cập tới tác động của Cách mạng văn hóa, trong đó cũng khó tránh khỏi bộ phận thích thú, thậm chí là sợ hãi, như những oan hồn phục thù hoặc số loại tương tự.
Mở lối cho những lệnh cấm chuyện ma quỷ, tất nhiên phải đến sau thời kỳ Cách mạng văn hóa, thậm chí nếu công khai chuyện ma quỷ còn phải đợi đến thời gian sau nữa. Trong ký ức của tôi, có lẽ phải đợi tới gần mười năm sau, Phùng Ký Tài tiên sinh mới viết cuốn tùy bút đưa ra đề xuất mang tính thăm dò: Có nên sâu nghiên cứu về vấn đề “văn hóa chuyện ma quỷ”? Sau này, nhà xuất bản ở Thượng Hải xuất bản cuốn tiểu thuyết dịch có tên làVăn hóa ma quỷ.[/I] Mặc dù “văn hóa u minh” của Trung Quốc và “văn hóa ma quỷ” của phương Tây là hai phạm trù hoàn toàn khác biệt, nhưng tạo điều kiện cho những phong bế cấm kỵ nghiêm ngặt trước đây được dịp mở cửa hoàn toàn. Từ đó đến nay, những lệnh cấm đoán chuyện ma quỷ đương nhiên còn tồn tại, chỉ cần lên mạng và tra cứu dòng chữ “liên bồng quỷ thoại” là có thể thấy ngay tư tưởng được khai mở đến mức nào.
Từ tôi thích nghe kể chuyện ma, vừa nghe vừa sợ, nhưng càng sợ lại càng muốn nghe, đến khi tôi biết đọc, biết viết, tôi liền tự tìm đến những cuốn sách ma để xem. Bây giờ có thể tự tin đọc được văn ngôn cũng chính là kết quả của thời niên thiếu ham thích những cuốn sách kiểuLiêu trai chí dị[/I]. Đọc nhiều truyện ma quỷ cũng giúp ta có thêm nhiều hiểu biết về thế giới u minh của người Trung Quốc, những câu chuyện xét về khía cạnh nào đó còn là biểu cho quan niệm về thế giới hồn, thế giới của người chết theo phong tục lâu đời trong dân gian. Vì những điều đó, mỗi tác phẩm như vậy ra đời chỉ là sản phẩm của cá nhân mà bao hàm trong đó là phản ánh nhiều kiểu quan niệm, suy nghĩ phức tạp về con người và thế giới, qua đó cũng có thể định hướng cách thống nhất giữa những quan điểm rối ren, phức tạp và đầy mâu thuẫn. Cái chung nhất có thể cảm nhân được chính là cảm giác trải qua nỗi sợ hãi sau mỗi câu chuyện ma thú vị, nỗi sợ hãi ám ảnh khác hẳn với cái sợ sệt vẫn thấy trong cuộc sống hằng ngày. cách hình ảnh hơn chính những câu chuyện ma quỷ ấy lại có thể giúp người ta có được thú vị sâu sắc tận trong tâm hồn. Do đến cái tuổi nhàn rỗi đến nhàm chán, cho nên nảy sinh cái thú vị chuyện ma quỷ làm vui.
Mặc dù vậy nhưng để có được cuốn truyện ma được đăng tập san quả thực cũng phải chuyện dễ dàng, đó còn chưa kể đến lệnh cấm nghiêm ngặt ở . Nhưng điều thôi thúc tôi đến với những câu chuyện ma nhất chính là cảm giác kỳ ảo, ma quái, thể thành lời toát lên từ mỗi trang truyện. Quả thực có những thứ thực khó lý giải mà người ta chỉ có thể tìm thấy tính hợp lý của nó ở trong những câu chuyện hấp dẫn này. Vì thế, khi tôi thử đặt bút viết cuốn sách này, trong lòng cũng có nhiều điều e sợ, sợ mang rắc rối đến cho người biên tập, càng sợ gây thêm phiền phức cho gia đình. Cho nên khi gửi bản thảo rồi mà nghe tin bị gửi trả hay thông tin gì đó tương tự, tôi hề cảm thấy bất ngờ chút nào. Nhưng điều nằm ngoài mong đợi của tôi là tạp chíVạn Tượng[/I] những mạnh dạn chấp nhận mà còn hào phóng đề nghị mở chuyên mục kể chuyện ma báo. Nhờ có khích lệ đó mà chỉ trong vòng hai, ba năm tôi nỗ lực ngừng để có được số lượng lớn các câu chuyện ma. Trong thời gian kể , bên cạnh hỗ trợ đắc lực của tạp chíVạn Tượng[/I], tôi còn nhận được quan tâm, động viên của các độc giả, những người trẻ tuổi luôn mến và cổ vũ tôi để tôi có được nỗ lực và quyết tâm hoàn thành cuốn sách như ngày hôm nay. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất.
nay, nhà xuất bản Văn học và Nghệ thuật Thượng Hải có ý định tập hợp những câu chuyện kể về ma này với những sáng tác có cùng chủ đề chuyện ma của những người bạn của tôi để xuất bản thành bộ sách. Đây thực là niềm vinh dự lớn đối với tôi. Như vậy, những câu chuyện tản mạn về ma của tôi trong suốt hai, ba năm bao gồm cả những sáng tác chưa lần đăng tải tạp chíVạn Tượng, [/I]cũng được tập hợp và sắp xếp ấn định theo thời gian sáng tác, trong mỗi trang truyên có những câu từ còn chưa thực hoàn hảo, khi xem lại tôi xó điều chỉnh đôi chút ở bên dưới, sau này có thể cắt gọt bớt cho hàm súc. Đồng thời, trong quá trình viết truyện, khi viết xong mỗi chương đoạn tôi đều tạm thời dừng lại, sau khi lắng nghe mọi ý kiến đóng góp của bạn đọc rồi mới quyết định nên hay nên viết tiếp, và nên lựa chọn viết như thế nào.
LOAN BÁO QUẦN - ngày mùa thu năm 2009
<img style="border: 0px solid #cccccc; clear: both; cursor: pointer; max-width: 560px; min-width: 10px; padding: 4px 0px 0px;" alt="" src="http://i363.photobucket.com/albums/oo75/shishi32_2009/1199_200803061011102jiYM.gif" border="0" />
MsoNormal" style=" Chương 2: Lại về “Những thứ dưới nước”[/B]
Đường lão nhân khi xưa viết cuốn sách bàn về “vạn vật sống trong nước”, cuốn sách nổi tiếng giới thiệu những loài “tôm, cá, cỏ, cây”. Chủ đề này thực gợi mở cho tôi nhiều suy nghĩ, vì thế cho nên tên đề mục mở đầu câu chuyện nhất thiết phải ràng cái ý “quỷ sông ma nước” mà chỉ cần gợi mở ra trong phạm vi rộng lớn của lớp ngôn từ có tính bao quát, vừa mơ hồ, lại vừa bí . Hơn nữa, cũng cần phải nhắc tới đặc thù hay nghiêm trọng của ma quỷ, mà chỉ cần tới vạn vật chung chung mà thôi. Nhưng hôm nay, vấn đề này lại được bàn luận cách chi tiết, tỉ mỉ hơn. Giả dụ câu chuyện mà chúng ta bàn tới ở đây được đặt típ chuyện giật gân “ chuyện về những con ma chết đuối” hay văn nhã hơn là “thuyết nịch quỷ [1] ”, điều này chắc hẳn rất khó tìm được tạp chí thích hợp để đăng tải. Vì thế mượn lối của tiền nhân và đưa thêm vào dấu ngoặc kép, người viết hề có ý gì sâu xa mà chỉ mong sao thoát khỏi được những mông lung, rối rắm trong nhan đề, để câu chuyện đến được với độc giả và nhận được đồng thuận, mến. Đương nhiên sau khi tháo gỡ được những khó khăn này, vẫn thể tránh khỏi nhiều ý kiến trái chiều, điều này cũng giống như khi sung sướng thưởng thức cá biển mà vẫn phải lo ngại về điều gì đó sâu trong dòng nước. Tuy nhiên, đó là những câu chuyện của sau này, còn thực tại vẫn rất khó để có thể vượt qua nỗi mông lung, hỗn độn này.
[1] Thuyết nịch quỷ cũng có nghĩa là chuyện về những con ma chết đuối.[/I]
Trong tác phẩm của mình, Đường lão nhân có đoạn dụng ý việc chuyên tâm chuyện ma quỷ của mình, trong đó có đoạn viết: “Tôi có ý muốn lấy ma nước là đề tài tiên phong cho tác phẩm của mình, chính đề tài này gợi ra nhiều hứng thú cho mọi người trong việc nghiên cứu, thẩm định nhiều phương diện.” Trong khoảng bảy mươi năm sau khi có câu này, biết có ai hứng thú làm công việc thẩm định, nghiên cứu về vấn đề này chưa, hoặc là sau những điều tra nghiên cứu cũng chưa thấy có ý kiến tranh luận gì. tóm lại, tôi vẫn chưa phát thấy có bài viết nào đề cập tới phương diện này. Thành phố tôi ở khi còn là vùng sông nước phương Bắc, có ít sông, hồ, kênh, rạch chằng chịt, cho nên người dân nơi đây vẫn thường kể cho nhau nghe câu chuyện về những con ma chết đuối. Những câu chuyện ấy chỉ nhằm nhắc nhở trẻ con trong vùng được chơi đùa ở những chỗ gần sông nước. Mặc dù tôi còn nhớ những câu chuyện hồi ấy có đặc sắc như những câu chuyện ma vùng sông nước Giang Nam hay , nhưng đến bây giờ, mặc dù nước sông vùng Hoa Bắc cạn khô, lòng sông rộng lớn của mười mấy năm trước đây nay trở thành công trường thi công nạo vét, nhưng “vạn vật trong nước” ấy chính là những thứ được đào khoét nằm sâu trong lòng đất. Thành phố tôi sống bây giờ lại là nơi chẳng có lấy dòng sông hay con suối, và đương nhiên cũng chẳng có những câu chuyện ma như trước kia. Mấy năm về trước, để cải thiện tình hình, thành phố cho đào con sông nhân tạo, lòng sông được lát xi măng, hai bên bờ sông là những bậc thềm ngay ngắn, sườn dốc thoai thoải, nhưng hiểu vì sao, cứ sau ba đến năm bậc lại đột ngột hạ xuống mấy thước, kết quả là mấy năm liền đều có người bị rơi xuống nước chết đuối. Những ghi chép để lại về những vụ chết đuối ấy có lẽ cũng nhiều lắm, chủ yếu đều là những ghi chép tinh thần khoa học, nhuốm màu sắc mê tín dị đoan, cho nên cũng chỉ có mấy dòng tin tức, cảnh báo đăng rải rác các tạp chí, còn lại chẳng có gì được coi là dấu hiệu của những câu chuyện huyền bí về “người thế tội”. thao thao bất tuyệt hồi, mục đích của người cũng chỉ nhằm giải thích hai chữ “lại ” có trong đầu đề chương chuyện. Thực tế những chuyện đây cũng chẳng liên quan gì nhiều với những điều mà Đường lão nhân viết, chỉ là từ trong những câu chuyện ấy có chứa đựng vài thông tin thú vị về ma nước mà chúng tôi muốn bàn tới ở đây.
Chết đuối có thể được coi là biểu phản ánh tiến hóa từng bước của con người, vì trong hành trình lên của nhân loại luôn luôn có những lối mòn và con người cứ theo cái lối mòn ấy mà . Chết đuối cũng là trong những lối mòn như thế. Lội nước trượt chân và lũ quét dữ dội đều là những điều mà tổ tiên chúng ta thể lường trước được. Đối với chúng ta, để có được khái niệm về hồn ma ràng cần phải có nhiều hơn những ghi chép về các vụ chết đuối, mà những hồn ma và những người chết đuối lại gặp gỡ nhau ở quan niệm trở thành cố hữu trong tín ngưỡng dân gian là người chết đuối bao giờ cũng phải kéo theo người khác rơi xuống nước để làm kẻ thế thân cho mình mới có tư cách tham gia vào vòng luân hồi của những kiếp “ma nước”. Từ trước đó, thi thể của người chết đuối có thể bị chôn vùi hay chìm nổi lênh đênh theo dòng nước lũ làm mồi cho cá dữ nhưng linh hồn của họ vẫn vẩn vơ nơi mồ mả hoặc men theo những người hợp duyên qua lại đường, những người chết này hầu như có trường hợp ngoại lê.
Linh hồn của người chết đuối mà có danh tính, địa chỉ quê quán ràng, phần lớn đều được gọi với tên là “Phùng Di”. Cái tên Phùng Di này khẳng định đây là vay mượn tạm thời vì vốn dĩ đó là tên gọi của Hà bá. TrongHoài Nam Tử[/I] có đoạn viết: “Phùng Di đặc đạo, dĩ tiềm đại xuyên [2] ” Từ thời nhà Hán trở về trước, dòng sông lớn được nhắc tới ở đây chính là sông Hoàng Hà. Trong những tài liệu còn ghi chép lại được xuất câu chuyện lưu tryền trong dân gian về Phùng Di. Trong những câu chuyện ấy, Phùng Di lên là vị thần sông từ thời cổ đại vô cùng gần gũi với người dân vùng sông nước. Dường như vị thần sông ấy có nguồn gốc xuất thân từ người bình thường trong dân gian, chỉ sau khi tu luyện “đắc đạo” mới trở thành thần sông nước: “Phùng Di, người vùng Hoa Dương, đắc đạo trở thành thần sông.” Nhưng làm thế nào Phùng Di có thể đắc đạo thành tiên? Những ghi chép giải thích về vấn đề này lại hoàn toàn giống nhau, trong cuốn bốn truyện sưu tầm về thần thánh của Ca Bảo thời Đông Tấn hé lộ số thông tin được lưu truyền trong dân gian:
Hoằng Nông Phùng Di là người vùng Hoa [/I] [3] , chết đuối trong lần qua sông vào ngày Canh Thìn tháng Tám. Thiên hoàng thương xót phong làm Hà bá cai quản vùng sông nước. Trong sách Ngũ hành cũng viết: “Hà bá chết vào ngày Canh Thìn. thể chèo thuyền qua sông, đắm thuyền mà chết.”[/I]
[2] Có nghĩa là: Phùng Di tu luyện thành công về ở nơi sông lớn.[/I]
[3] Tên địa danh ở tỉnh Thiểm Tây - Trung Quốc.[/I]
ra, “đắc đạo” của Phùng Di xuất phát từ nguyên nhân chết đuối của ông ta. Nhưng lúc đó vẫn chưa thịnh hành thuyết “thi giải [4] ” thành tiên, ở đây ám chỉ chết đuối của Phùng Di. thực tế, ông ta rơi vào tình cảnh tai ương như vậy thực chẳng có gì may mắn cả, cũng chẳng phải thoát xác hóa thần hóa thánh gì hết. Vì thế việc chết đuối và “đắc đạo” là hai chuyện hề liên quan đến nhau. Vậy nhưng, tại sao Thiên hoàng lại phong tước cho ông ta là Hà bá? Để lý giải điều này người ta chỉ có thể dựa vào phỏng đoán. Đứng từ phương diện cái thiện mà sau khi Phùng Di qua đời, đảm nhiệm vai trò thần sông, xuất phát từ chính nỗi bất hạnh mà cuộc đời mình gặp phải, nên ông ra sức cứu giúp, bảo vệ người dân, tránh cho họ gặp phải tai nạn chết đuối. Đó là việc làm đầy thiện tâm. Nhưng đứng từ phương diện cái ác mà lý giải, theo thuyết Ngũ hành đưa ra lời khuyên cảnh báo tới những người chèo thuyền qua sông vào những ngày nước lớn phải hết sức cảnh giác, vì thời điểm đó chính là lúc Hà bá giận dữ sẵn sàng nhấn chìm bất cứ ai xuống vực nước sâu thăm thẳm. Tuy nhiện, trong tâm thức của con người, chúng ta vẫn tin vào tấm lòng thiện tâm của người quân tử, cho nên mỗi người dân vẫn thường nghi ngại mà nhận định rằng việc làm quen thuộc, giản đơn của thần Hà bá chính là bảo vệ, cứu giúp những người qua sông được an toàn. Có thể đưa ra ví dụ dễ thấy từ truyện Dinh tân phụ [5] trích từ cuối năm,Sưu thần ký[/I] [6] :
“ dòng sông Hoài Nam từng xảy ra cái chết thương tâm của trẻ, vốn là thiếu nữ xinh đẹp, mười sáu tuổi xuất giá. Câu chuyện về nàng thương tâm! Sống ở nhà chồng, nàng bị áp bức, đánh đập đến nỗi thể chịu được. Vào đúng ngày mùng Chín tháng Chín, trong nỗi đau khổ, uất ức đến tột cùng, nàng tự tìm đến cái chết. Câu chuyện về người con bất hạnh ấy vẫn được người dân kể lại với nỗi thương cảm vô bờ. Trong những ghi chép của mình, Vu Chúc đưa ra lời khuyên: “Những người phụ nữ trong gia đình cần ghi nhớ trong ngày mùng Chín tháng Chín chớ nên làm bất cứ việc gì.”[/I]
[4] Thi giải: có nghĩa là thoát xác.[/I]
[5] Người vợ trẻ.[/I]
[6] Những ghi chép, sưu tầm chuyện về các vị thần.[/I]
oan hồn bị mẹ chồng đối xử tàn nhẫn mà chết, linh hồn hóa thành minh thần để bảo vệ những người phụ nữ bất hạnh, vị minh thần này cùng với oan hồn chết đuối ở chẳng phải cũng giống nhau ở hành động nhân nghĩa ấy sao?
Nếu phỏng đoán này là đúng, thi Hà bá chính là oan hồn đầu tiên được phong thần. việc chết đuối mà hóa thành thần sông như thế, hàng ngàn năm sau, vào thời Nam Tống cũng lưu truyền trong dân gian câu chuyện nổi tiếng về Lý Hầu khi qua sông bị quỷ ám mà chết. Cũng giống như Phùng Di, ông ta chết đuối và cũng được phong làm thần trị thủy. ví dụ khác trongHữu đài tiên quán bút ký[/I], cuốn chín,Tiên giang nữ thần[/I] của Du Việt có đoạn kể về dân nữ họ Lưu sống ở huyện Hữu Tuyền, tỉnh Tứ Xuyên sau khi chết đuối: “Ở dòng sông Tiên Giang, mỗi khi có người rơi xuống nước thường có vị thần xuất cứu vớt. Vị thần này mỗi lần lên thường mặc chiếc áo trắng, dung mạo toát lên vẻ xinh đẹp của thiếu nữ còn xuân trẻ. Người ta cho rằng, rất có thể đó là linh hồn của người con họ Lưu kia. trải qua bao đời mà linh hồn người khuất vẫn lẩn khuất đâu đây, người dân vùng này gom góp tiền bạc xây dựng miếu thờ nàng, thành miếu còn ghi tạc dòng chữ “Tiên Giang thủy thần miếu [7] ”, lúc nào cũng nghi ngút khói hương.” Từ điều này có thể thấy, người dân sống vùng sông nước thường có niềm tin, hy vọng tuyệt đối vào sức mạnh của những vị minh thần phù hộ cứu giúp mình vượt qua khó khăn, hoạn nạn.
[7] Nghĩa là: Miếu thờ thủy thần sông Tiên Giang. [/I]
Nhưng cũng có những điều trái ngược với tín ngưỡng này, đó là tư tưởng “giang Trành [8] ”, linh hồn sau khi chết thường tìm đến lôi kéo những người khác vào chỗ chết đuối để làm người thế thân cho mình. Quan niệm “ma đưa lối, quỷ dẫn đường” này được tới sớm nhất trong cuốn ba, truyện truyền kỳBắc mộng tỏa ngôn[/I] [9] của Tôn Quang Hiến, trong tác phẩm có đoạn viết:
Lưu vực hai bên bờ những dòng sông lớn thường có nhiều oan hồn chưa siêu thoát vẫn về về dụ dỗ nhưng người qua lại ngã xuống nước, đắm thuyền mà chết, oan hồn người chết lại tiếp tục quẩn quanh dụ dỗ, hãm hại những người qua sông khác, tạo thành cái vòng luẩn quẩn đầy oan nghiệt.[/I]
[8] Nghĩa là: Ma đưa lối quỷ dẫn đường.[/I]
[9] Nghĩa là: Những ghi chép tản mạn về giấc mộng phương Bắc.[/I]
Cũng vẫn tác phẩm ấy, trong cuốn bốn có đoạn ghi:
Phàm là những người chết do hổ vồ, hay ngã nước linh hồn đều rất khó siêu thoát, họ thường vật vờ quanh quẩn tìm người thế mạng cho mình.[/I]
Sau này, hai chữ “giang trành” còn được người đời sau sử dụng, thay vào đó học nhắc nhiều đến những chữ “oan hồn chết đuối”. Điều này đại khái là chỉ những kẻ chết đuối nếu tìm được người thế mạng đầu thai thành người được. thực tế, những oan hồn cần tìm người thế mạng chỉ có ở quanh ao, hồ, sông nước mà ngay cả oan hồn chết đuối dưới giếng cũng cần tìm người thế thân. TrongTiền thị tư chí[/I] của Tiền Thế Chiêu thời Nam Tống có đoạn viết:
Vào thời Thiệu Hưng, Ngô Sơn Hạ có cái giếng lớn, mỗi năm đều có nhiều người rơi xuống giếng chết đuối. Thái úy Đống Đức cùng nhân dân hào phóng quyên góp tiền của xây cất giếng, có thể dùng thùng lấy nước, giúp hạn chế nhiều vụ tai nạn thương tâm xảy ra, có người trước khi chết còn nghe thấy từ trong giếng vọng ra tiếng : “Các người luôn sợ hãi trước cái chết, chúng ta có khả năng cướp sinh mạng của các người bất cứ lúc nào.”[/I]
Câu cuối cùng đó thực chất chỉ là thủ pháp “vẽ rồng thêm mắt” của người viết, rất có thể là ảnh hưởng từ truyệnTiếu lâm [/I]hoặc trích từ Phật môn. Còn đối với câu chuyện về oan hồn chết đuối, trong những cuốn tiểu thuyết từ thời Tống nhiều lần đề cập đến, tác dụng giáo dục mà những câu chuyện đó mang lại chính là khuyên mọi người đặc biệt lưu ý khi qua lại những khu vực ven sông, nơi từng có người bị chết đuối, những nên lội nước mà tốt nhất hãy tránh xa khu vực đó khoảng cách an toàn. Bài học có ý nghĩa cảnh báo đặc biệt với những ai sống trong khu vực nhiều sông, hồ, kênh, rạch.
khi những hồn ma tìm được người thế thân, họ ra sức tìm cách lôi kéo, dụ dỗ, hoặc sử dụng những trò lừa gạt, bịp bợm, hoặc dùng chính nhan sắc để mê hoặc. Người viết cố ý nhấn mạnh và đưa ra lời cảnh báo tới những gia đình sinh sống ở ven sông, vì thực tế, phần lớn những hồn ma chết đuối đều có liên quan tới những vụ án sông nước, cho nên những linh hồn ấy nếu chưa được siêu thoát chẳng khác gì lũ thổ phỉ chuyên gieo tội ác, hãm hại người vô tội. TrongDi kiên giáp chí, [/I]cuốn bốnTưởng Bảo vong mẫu[/I] của Hồng Mại thời Nam Tống có đoạn kể lại cách súc tích, khúc triết và đầy sống động về vấn đề này:
Phác Tưởng Bảo mình ngựa rong ruổi về quê, chìm đắm trong cảnh sắc thôn dã giữa đem khuya tĩnh mịch, bỗng từ phía sau tới giai nhân khoác mình bộ xiêm y trắng toát, cùng song hành tới bến nước trước mặt. Giai nhân mời mọc chàng cùng tắm tiên, nàng cầm vạt áo nhàng cởi ra, rồi từ từ ngâm mình xuống nước. Bất chợt vang lên tiếng gọi mơ hồ, ban đầu chỉ là những thanh vọng lại từ xa nghe , sau dần, nghe ai oán như lời khóc mẹ. Trong lời than khóc có hàm ý răn đe: “Đồng hành giả phi hảo nhân, thiết bất khả dữ dục[/I] [10” Lời vừa dứt, Phác Tưởng Bảo vội vã lội vào bờ, phi ngựa chạy thẳng đến nhà dân gần đó. Khi trấn tĩnh ngoái đầu nhìn lại chỉ còn thấy chiếc áo trắng phất phơ, mập mờ rồi biến mất.[/I]
[10] Có nghĩa là: Người cùng phải là người tốt, tuyệt đối nên tắm chung.[/I]
Câu chuyện nhằm đưa ra bài học đề cao cảnh giác, ý nghĩa của bài học này chỉ có tác dụng đối với nhân dân sống ở những vùng sông nước, mà suy rộng ra ở những nơi như tụ điểm cờ bạc, lầu xanh cũng có tượng “ma đưa lối, quỷ dẫn đường” dưới nhiều dạng thức khác nhau. Như vậy có thể , tác dụng giáo dục của những câu chuyện ma quỷ là thiên biến vạn hóa, có thể áp dụng vào nhiều trường hợp khác nhau trong cuộc sống, tuy chưa đầy đủ nhưng cũng có thể bổ sung cách phong phú và cụ thể hơn cho tư tưởng “thần giáo” theo quan niệm của dân gian.
TrongTử bất ngữ[/I] của Viên Mai, cuốn ba,Thủy tiên điện[/I] có đoạn viết: chàng thư sinh, đường vào kinh hưởng bổng lộc vua ban, tình cờ gặp người áo đen, người này dùng hết lời ngon tiếng ngọt dụ dỗ chàng theo nàng ta xuống “Điện Thủy tiên” dạo chơi vãn cảnh. Khi cánh cửa sơn son thiếp vàng mở ra, từ phía tây hồ nổi lên cung điện uy nghi lộng lẫy, bên trong xuất vô số các cung nữ với xiêm y lộng lẫy say sưa trong lời ca điệu múa. Người áo đen chỉ tay và : “Kia là chốn bồng lai tiên cảnh, chàng hãy cùng ta ở lại đây ngắm nhìn các mỹ nữ, thưởng nhạc họa thơ, cuộc sống như vậy chẳng phải vui vẻ lắm sao?” Câu chuyện này còn ngụ ý lời khuyên sâu sắc gửi tới các bạn thanh niên trẻ tuổi nên ham mê quá đà vào những trò ăn chơi nơi vũ trường, quán xá. Với ý nghĩa đó, câu chuyện vượt qua cả giới hạn bó hẹp của phạm vi “kể chuyện ma quỷ” mà vươn ra tầm xã hội, mang đến những bài học giáo dục thiết thực nhất. Những câu chuyện ma quỷ được ghi chép lại trongHữu đài tiên quán bút ký [/I]có sử dụng rất nhiều yếu tố huyền ảo nhằm huyễn hoặc con người, chẳng khác nào dùng tấm màn che nhiều màu sắc che khuất tầm nhìn của người khác, khiến họ thể thấy được lối mà chỉ còn cách men theo những thanh vịn lan can chới với để qua cầu.
Từ những hành vi ma quỷ đó, có thể thấy đây đều là những mưu xấu xa nhằm hãm hại người khác để chuộc lợi về mình, vì thế cả “giang trành” và “hổ trành [11] ” đều chẳng kém gì lũ lừa gạt, đê hèn, bỉ ổi, xấu xa… chúng đôi khi còn giống nhau ở ngay thủ đoạn và hành vi hại người. Như trongTùng song mộng ngữ [/I]của Trương Hãn ghi lại trường hợp hai thư sinh bị chết đuối sông. Để mình có thể được đầu thai luân hồi vào kiếp khác, họ đành phải hóa thành hai kiều nữ chốn “thanh y” hòng dụ dỗ những chàng thư sinh tuấn tú đồng môn của mình. Cho nên, điều bị coi là “ích kỷ” ở đây thực chất lại là những mong muốn chính đáng, có lựa chọn nào khác buộc họ phải sử dụng những thủ đoạn tàn ác đẫm máu, đó chỉ là lựa chọn bất đắc dĩ của những hồn ma khát khao được luân hồi chuyển kiếp mà còn cách nào. Thành thử suốt khoảng thời gian mấy chục năm về trước, loạt những quy định nghiêm ngặt về “bạch phân chi ngũ” hóa ra đều là mong tìm được người thế mạng. Tuy nhiên, trong thời điểm đó cũng xuất những hồn ma cao thượng, chịu chấp nhận số kiếp lưu đày khổ ải mà cần thế thân. Câu chuyện của Vương Lục Lang trongLiêu trai chí dị[/I] chắc hẳn quá quen thuộc với mọi người, vì thương tình Vương Lục Lang mà Thiên đế ban cái chết cho làm oan hồn thế thân cho chàng ta, nhưng ngờ sau bao ngày tháng trông mong có vận may để đầu thai, siêu thoát, vậy mà đến lúc cần đưa ra quyết định, ta lại lựa chọn chấp nhận mãi mãi làm oan hồn lênh đênh chìm nổi mặt nước mà nhường lại cơ hội sống sót cho người con vô tội kia. (Câu chuyện này về sau còn được dùng để tới quan điểm về báo ứng ở đời, nhưng khi đưa vào “cảm ứng thiên bàng chứng” lại dùng để tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống). ví dụ khác trongHữu đài tiên quán bút ký, [/I]cuốn sáu, có kể lại câu chuyện về người chẳng may sa chân xuống nước mà chết đuối, mặc dù giống hành động của Vương Lục Lang, nhưng nhân cách của ta cũng được xem là cao thượng, vì bắt đầu từ giây phút ta lìa khỏi thế gian và chìm dưới đáy nước, ta cũng hề có ý định hại người hòng thế mạng cho mình, cho nên những hồn ma chết đuối ấy tất nhiên cũng được nhân dân coi thờ như những vị thần tốt bụng luôn bảo vệ cuộc sống của con người.
Đối với những hồn ma tìm cách hãm hại người vô tội để thế mạng cách vô lý, Viên Mai, nhà thơ nổi tiếng đời Thanh cũng đưa ra nghi ngờ, trongViết tiếp tử bất ngữ, [/I]cuốn ba,Đả phá quỷ lệ [/I]có đoạn viết:
Đêm khuya thanh vắng, chàng thư sinh họ Lý say sưa đọc sách bên dòng suối cạnh nhà, bỗng từ xa vẳng lại giọng đầy ma mị: “Ngày mai có người qua sông, và thế thân cho ta.” Ngày hôm sau, quả nhiên có người qua sông, chàng thư sinh họ Lý bèn tìm cách ngăn ta lại.[/I]
Đêm về, hồn ma hôm trước đến trách mắng: “Nhà ngươi cớ sao lại ngăn cản việc ta tìm người thế thân?” Chàng thư sinh họ Lý đáp: “Vạn vật đều có quy luật luân hồi, tại sao ngươi chờ đợi đến kiếp luân hồi mà nhất nhất phải tìm người thế thân cho mình?” Hồn ma đáp lại: “Lệ thường dưới phủ trước nay đều như thế, ta cũng thể làm khác. Ta đâu có được may mắn như người sống giữa chốn trần gian, học được cấp lương, được làm quan, chức quan còn trống tất nhiên có người được bổ khuyết, ngươi nghĩ xem như vậy chẳng phải là quá may mắn hay sao?” Chàng thư sinh họ Lý đáp: “ như ngươi quả là nhầm lẫn quá rồi! Học trò học được nhà vua cấp lương thảo, quan lại được hưởng bổng lộc vua ban, người dân trong thôn cùng xóm vắng ai nấy đều có phần, vậy chẳng thể là lãng phí, tất cả đều có định mức được quy định ràng, thể là việc làm tùy tiện, bất đắc, bất nhiên được. Hơn nữa cuộc sống trần gian và địa phủ, giữa và dương vốn khác xa vời vợi, tự sinh tự diệt, mình làm mình hưởng, vì thế tạo hóa chỉ có công quản lý của cải và phân chia công bằng cho tất cả mọi người mà thôi.” Hồn ma lại : “Vậy với kẻ quân vương, hai chữ thịnh suy, thế ngôi giải thích làm sao?” Lý đáp: “Nhà ngươi còn hỏi tới chuyện thế ngôi sao? Các vương triều thay thế nhau là điều tất yếu của lịch sử, việc nhà ngươi đến để kéo ta làm người thế thân, lại còn hỏi ta về việc luân vương, chẳng khác nào mắng người trước mặt.” Hồn ma cười lớn, nhảy múa mà , từ đó thấy quay lại nữa.[/I]
Viên Từ tới ma quỷ mà tin ma quỷ, trong những câu chuyện cổ dân gian vẫn thường thấy có những cách hỏi vặn như vậy, qua đó hàm rất nhiều những kiến giải đặc sắc về cuộc sống, con người, về nhân tình thế thái. Ông đưa ra ví dụ về chuyện ma quỷ ở thế giới địa phủ, nhưng từ chuyện cõi mà người ta có thể dễ dàng hình dung, liên tưởng tới cõi dương, đây là dụng ý lấy chỉ dương của người viết. Mục đích của câu chuyện phải là chuyển luân vương mà là chính chúng ta, những con người sống trong thế giới thực tại.
Nhưng tại sao chúng ta lại có cơ sở khoa học lý giải điều này mà phải mượn cớ hồn ma đáng thương tự tìm đến phiền phức trong câu chuyện để gửi gắm suy nghĩ của mình? Quả thực, ngay cả những gợi dẫn từ trong câu chuyện dân gian, Viên Tử cũng mới chỉ đưa ra những gợi ý cho những nghiên cứu sau này. Khiêm nhường đưa ra cách lý giải xuất phát từ căn nguyên của câu chuyện này để gửi thông điệp cảnh báo tới mọi người nên tránh xa những mép nước nguy hiểm. Ngoài ra, thông qua câu chuyện này, người viết còn muốn đưa ra lời cảnh báo thứ hai, lời cảnh báo dành cho những ai có ý định nhảy sông tự tử, đừng coi thường mạng sống của mình, cách khác chính là ông lên tiếng phản đối những suy nghĩ tiêu cực muốn tìm đến cái chết hòng trốn tránh cuộc đời. Tất nhiên, với những hồn ma tự vẫn như vậy ít có nhiều liên quan đến nguyên nhân do cuộc đời đưa đẩy.
Quả thực, những tài liệu nghiên cứu có thể phản ánh phần nào cách chân thực hoàn cảnh lịch sử của thời đại. Những câu chuyện về “nịch quỷ cầu đại [12] ” xuất muộn nhất vào cuối đời Đường. Nếu so sánh với những câu chuyện về “ải quỷ cầu đại [13] ” xuất vào thời Nam Tống là xuất sớm hơn mấy trăm năm. Từ những ảnh hưởng khách quan, có thể thấy, so với “ải quỷ”, “nịch quỷ” có tác động xấu, phá hoại và làm ô nhiễm môi trường sinh thái của chúng ta, vì thế đối với “nịch quỷ”, mọi người thường có thái độ phản cảm. cách mang tính chất thăm dò mặc dù trong lịch sử có nhiều người chết vì treo cổ hơn những người chết vì chết đuối, nhưng có vẻ như càng về sau này số vụ chết đuối ngày càng tăng. Vấn đề đặt ra là có nên nâng cao trình độ “thuyết phục” bộ phận những người có suy nghĩ coi thường mạng sống muốn nhảy sông tự vẫn sang treo cổ tự vẫn? Về vấn đề này khó để đưa ra những con số thống kê chính xác, chúng tôi cũng chỉ xin dừng lại ở vài suy nghĩ mang tính chủ quan như vậy.
[12] Hồn ma chết đuối tìm người thế thân.[/I]
[13] Hồn ma treo cổ tìm người thế thân.[/I]
lại, dù sao dám cả gan đề cập đến những vấn đề này cần phải có thái độ dứt khoát, hoặc là làm hoặc là . khi nhắc đến hồn ma chết đuối phải thêm về những linh hồn vì treo cổ tự tử mà chết. đây nhắc tới “ải quỷ cầu đại”, cũng nên hơn về chủ đề này.
Hồn ma treo cổ[/B]
<img class="aligncenter" style="border: 0px solid #cccccc; clear: both; cursor: pointer; max-width: 560px; min-width: 10px; padding: 4px 0px 0px;" alt="" src="http://i363.photobucket.com/albums/oo75/shishi32_2009/1199_200803061011102jiYM.gif" border="0" />
TrongDuyệt vi thảo đường bút ký [/I]của Kỷ Vân dẫn câu chuyện về tên côn đồ, qua đó phân biệt hai loại hồn ma, loại chết chìm dưới giếng, loại khác treo cổ tự vẫn, cả hai hình thức tìm đến cái chết đó đều cần phải đắn đo vì chẳng ai có thể biết lựa chọn nào là thích hợp.
TrongĐường ngôn [/I]có câu : “La bặc bạch thái các hữu sở ái [14] ”, câu khác cũng có ý nghĩa tương tự: “Đầu hà thượng điếu, các hữu sở hiếu [15] ” Tại sao lại có những người dễ dàng tìm đến cái chết mà biết trân trọng cuộc sống của mình? Tất nhiên phải tìm đến con đường lối thoát như vậy cũng có nhiều nguyên nhân từ hoàn cảnh đến tâm lý, nhưng nghĩ kỹ lại còn có nguyên nhân khác xuất phát từ chính “ thoải mái” trong quá trình đơn giản hóa cuộc sống và cái chết, nên những người tự tử ngày càng gia tăng trở thành điểm nóng của xã hội.
[14] Ngay cả loài củ cải trắng còn có tình .[/I]
[15] Cúi đầu mặt sông xót thương người chết cũng là biểu của tình thương .[/I]
biết là bắt đầu từ khi nào, thắt cổ tự vẫn trở thành phương thức thường dùng nhất của những người muốn tự sát. Mặc dù, đó phải là cách thể “oanh liệt” nhất, nhưng thể nghi ngờ đó là hình thức tiện lợi và nhanh chóng nhất. Và đó cũng là hình thức thường dùng của các vị hoàng đế ngày xưa. Thời Xuân Thu, Sở Linh Vương, Ngô Vương là những vị hoàng đế cao quý lựa chọn đến với cái chết bằng cách treo cổ tự vẫn bên gốc cây đỉnh Vạn Tuế sơn. Còn đối với những người dân thường, trongTự quái đông nam ký[/I] có miêu tả, từ những ngôi nhà tranh ven sông thường vọng đến những thanh thảm thiết, đó là tiếng khóc thương, than vãn của những người dân thường khi họ tới bước đường cùng buộc phải tìm đến cái chết xà nhà để giải thoát cho chính mình.
Ở thời cổ đại, hình thức tự sát ràng phải là “cái mốt đa dạng” theo kiểu “quang điện hóa khí” như thời đại, nhưng cũng có vài hình thức để lựa chọn. Vậy mà cách họ tự sát cũng oanh liệt chẳng kém gì Sở Bá Vương hay Vưu Tam Thư. Bởi lẽ ở họ có dũng khí, có lợi hại mà người bình thường thể có, khi nhảy lầu, lúc lại rơi từ đài cao xuống… Hình thức tự sát ở thời cổ đại cũng có những đặc quyền nhất định, trong đó mức thấp nhất chính là hình thức bêu xấu khán đài, rồi ép uống thuốc độc, nhốt vào nhà lạnh hoặc xông khói độc… đến những phí tổn do các hình thức tự sát này gây ra, ràng thời nay chúng ta thể dễ dàng theo được cha ông ta về “tinh tế” và “mức độ sáng tạo” như thế. lại, lựa chọn hình thức tự vẫn treo cổ hay nhảy sông vẫn đỡ tốn kém chi phí nhất. Hơn nữa, hình thức treo cổ lại câu nệ về mặt thời gian, địa điểm hay bị người ngoài xoi mói, bắt bẻ nhiều điều. cách khác hình thức này vốn bị phụ thuộc vào địa hình, địa thế, chỉ cần chuẩn bị sợi dây đủ đỡ trọng lượng cơ thể mình là có thể đạt được mục đích rồi. Từ những điểm có thể thấy treo cổ tự vẫn vẫn là hình thức tiện lợi mà từ những người bình dân đến dòng dõi quý tộc thường lựa chọn mỗi khi muốn tìm đến cái chết.
số lượng những người tìm đến cái chết là những kẻ nghèo đói và những người sống trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc. Trong sách cổ thường có số lượng lớn ghi chép về nỗi tuyệt vọng của những người buộc phải lựa chọn cho mình con đường chết. Đó là những người dân chạy loạn do chiến tranh hoặc những người dân lầm than cơ cực vì khổ sai lao dịch. con đường đầy bất hạnh ấy, cứ cách mười bước chân lại có người đói khát treo mình cành cây. Thảm cảnh này thực là quá sức tưởng tượng. (Đương nhiên, nếu như có vương triều cho người dân cái quyền tự do giải thoát mình khỏi cái đói, cái khổ của cuộc sống bằng cách tự vẫn cũng chỉ là hình thức lấp liếm qua quýt để phô ra cái vẻ tốt đẹp bề ngoài mà thôi.) đến thời kỳ loạn lạc, có thể dẫn ra đây đoạn ghi chép từ cuốn bảy,Quang Châu binh mã trùng[/I] trongDi kiên chi chí quý tập:[/I]
Quang Châu (tức Hoàng Xuyên, Hà Nam ngày nay) trải qua thời kỳ chiến loạn bi thảm, tàn khốc trong lịch sử. Binh đao khói lửa vô tình khiến bao người dân vô tội chết thảm. Trong hoàn cảnh đó, nhiều hùng nhân kiệt như Thuần Hi Sơ, Trương Nhiễu Trịnh tìm mọi cách trấn thủ địa phận quận huyện mình cai quản. Thậm chí họ còn cho xây dựng hành lang trấn thủ kiên cố, vững chắc ở phía tây thành. Hỏi sai dịch của quan lại nhận được câu trả lời: “Những kho kiên cố đó đến nay chưa mở cửa lần.” Trong suy nghĩ Trịnh Tố Tham ắt có tư tưởng phục quốc. Đạp đổ xiềng xích, gông cùm, gươm đao… đó đều là những tư tưởng lệch lạc làm tổn thất đến lợi ích quốc gia nên thể tin dùng. Hệ lụy xảy đến là hàng vạn người treo mình xà nhà tự vẫn. Có người ghi lại: “Thời buổi loạn lạc, người dân chạy loạn kín đường, họ tự tìm cách giải thoát cho mình bằng sợi vải tơ thắt cổ tự vẫn.”[/I]
Hàng vạn người treo cổ tự vẫn xà nhà, con số này quả thực có sức mạnh tố cáo ghê gớm. Điều này trở thành “ tượng” vô cùng kỳ lạ. Lần lượt hàng vạn người treo mình tự tử tạo nên tình cảnh thảm thương, bi đát, xót xa đến cùng cực trong lịch sử Trung Hoa thời đó.
Mặc dù phần lớn những người tự vẫn đều thuộc tầng lớp dân đen con đỏ, những người rơi vào vào cảnh sống lầm than cơ cực, lối thoát, nhưng đứng phương diện lịch sử mà đây quả thực là giai đoạn lịch sử đen tối của đất nước. bộ phận những người tìm đến cái chết thời kỳ này là những trung thần hết mình vì đất nước, những liệt nữ kiên trinh tìm đến cái chết để bảo vệ phẩm giá cao quý của mình. Hành động ấy của họ tiêu biểu cho những con người trung nghĩa, chính trực trong vương triều, đối lập với những cái chết đê hèn của kẻ thất phu tiểu nữ chỉ bôi nhọ thêm cho nền thống trị vốn dĩ là linh thiêng thần thánh theo kiểu “tự kinh ư câu độc nhi mạc chi tri dã [16] ”.
[16] Theo Luận ngữ.[/I]
Đặc biệt thời kỳ Tống, Nguyên sau này, khi cái lý học dần dần thấm nhuần trong tư tưởng của quần chúng nhân dân vấn đề tự sát được biểu dưới những hình thức, thậm chí là những thủ đoạn đơn giản mà tinh vi hơn rất nhiều nhằm bảo vệ cái gọi là trung nghĩa, tiết liệt của người quân tử. Và dường như người ta cũng ưa lựa chọn cái “long xà” làm nơi thực hành động treo thân mình tự sát để bảo vệ danh phẩm của mình. (Tất nhiên đây là việc làm của những người có thân phận cao quý trong xã hội.) Họ tìm đến hình thức tự sát này chẳng những để bảo vệ danh giá của gia tộc mà còn vì Tổ quốc. Mặc dù họ chết nhưng vẫn còn thế hệ con cháu sau này cung kính mà tưởng nhớ. Những hành động lập cờ biểu, lập bàn thờ, lưu danh sử sách đều là những thủ đoạn của những người đương quyền trong tại hay quá khứ nhằm đề cao, tán dương những thứ được gọi là đạo đức hoàn thiện theo kiểu “dị dạng” đó. Thành thử hình thức này trở thành hành động “diễn trò” tồn tại trong suốt mấy triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Khi Sùng Trinh lên ngôi hoàng đế đưa ra lệnh chỉ những người thân cận, gần gũi nhất với mình mới được phép diện kiến, song hành cùng với nhà vua, còn những kẻ khác có cơ hội này. Tin tức truyền đến, số trung thần lũ lượt tìm cách treo mình lên xà nhà quyên sinh nhằm phản đối. Với hành động ấy, lẽ đương nhiên những người này được ghi danh trong sử sách. trường hợp khác, người mẹ khi biết con rể chết, người con còn xuân trẻ của mình buộc phải thủ tiết thờ chồng vô cùng khốn khổ. Bà đắn đo suy tính, hoặc là khuyên con nên bỏ cái chữ tam tòng, mặc kệ việc đánh mất danh tiết mà bước nữa, hoặc là giữ lấy hai chữ tiết trinh mà khuyên con mình treo cổ tự vẫn để trở thành tấm gương liệt nữ và được người đời sau truyền tụng, ngợi ca, lưu danh sử sách. Trong lịch sử những trường hợp như thường thấy rất nhiều.
Cho nên, dù có số liệu thống kê cách tuyệt đối nhưng nhìn cách khái quát có thể quả quyết rằng treo cổ là phương thức tự vẫn được con người lựa chọn nhiều nhất trong lịch sử từ cổ chí kim. Mặc dù vậy nhưng ở thời cổ đại, khoảng thời gian rất dài có hồn ma treo cổ nào được quan tâm cách đặc biệt. Chính vì vậy, có thể thấy loại hồn ma treo cổ xuất tương đối muộn. Sau này, những người treo cổ tự vẫn vào các câu chuyện ma quỷ cách rất tự nhiên, như ác ma đội lốt thái tử trongTả truyện [/I]hay người con họ Cung trong câu chuyệnHồng diệp truyền thi [/I]trích từBắc mộng tỏa ngôn [/I]xuất thời kỳ Ngũ Đại. Nhưng tất cả những linh hồn chết do thắt cổ tự vẫn này thường đều trở thành những linh hồn kỳ dị. Do những quy định nghiệt ngã của gia tộc chia cắt mối tình trong sáng giữa người con họ Cung xinh đẹp và chàng thư sinh Lý Nhân thông minh, tuấn tú. Tuyệt vọng, đau khổ vì tình tan vỡ, nàng tìm đến cái chết. Nhưng:
Sau khi chết, linh hồn người con họ Cung vẫn vấn vương, rời chàng thư sinh họ Lý. Vài năm sau, Lý Nhân đột nhiên lâm bệnh nặng. Gia đình thuốc men tìm người chạy chữa khắp nơi vẫn khỏi. hôm, có vị đạo sĩ già qua, người nhà bèn mời vào xem bệnh. Đạo sĩ phán “Người này có tà đeo bám” nên sắp cho mấy lá bùa hòng xua đuổi tà ma. Từ khi có những lá bùa yểm bên người Lý Nhân, linh hồn người con họ Cung còn chỗ đeo bám đành phải cáo từ ra .[/I]
Xem ra linh hồn treo cổ tự vẫn ấy những đa tình mà còn vô cùng lương thiện. Nhưng xét về diện mạo bên ngoài hay tính cách bên trong của người con họ Cung kia so với những hồn ma khác cũng có gì khác biệt. Ngay cả việc dùng khí thâm nhập vào người ở dương thế cũng là chuyện rất đỗi tự nhiên như những hồn mà khác vẫn thường làm. Tất nhiên, trong những câu chuyện viết về đề tài ma quỷ thể thiếu những chi tiết được người viết cường điệu hóa cách đặc biệt. Đó là những yếu tố kỳ ảo làm nên nét độc đáo, cuốn hút cho từng câu chuyện. Và truyện về người con họ Cung dẫn ra đây cũng phải là trường hợp ngoại lệ.
Nhưng để hình ảnh hồn ma treo cổ tự vẫn trở thành đề tài được định danh trong lịch sử các câu chuyện cổ ít nhất chúng ta cũng phải vượt qua được nỗi sợ hãi đơn thuần trước những câu chuyện ma quỷ đó. Đứng từ phương diện văn hóa mà nhìn nhận có lẽ bắt đầu từ thời Nam Tống, trongDi kiến chí, [/I]yếu tố ma quỷ chính thức xâm nhập vào trong các câu chuyện cổ. Tôi cho rằng tượng này ít nhiều có liên quan đến những hạn chế nhất định trong khả năng trị quốc của triều đình đương thời, do đó có thể lý giải phần nào nguyên nhân khiến cho số lượng các vụ treo cổ tự vẫn ngày gia tăng trong xã hội thời kỳ đó. Tuy nhiên, điều này chúng ta từ từ bàn đến sau.
Hình ảnh những hồn ma treo cổ tự vẫn trong Di kiên chí đương nhiên vẫn giữ được vẻ bề ngoài xinh đẹp có sức cuốn hút, hấp dẫn như những hồn ma thời Đường. Chắc hẳn nếu có được dung mạo mê hoặc như thế làm sao có thể dụ dỗ những kẻ si tình say đắm đến điên đảo. Tất nhiên, trong số đó hi hữu cũng có những hồn ma treo cổ mà có được vẻ bề ngoài hấp dẫn. Có những đôi lứa nhau nồng thắm, nhưng khi người bị vạch trần thân phận thực là hồn ma treo cổ họ thành ra xa lạ, trở mặt thành thù, rồi xuất những tình cảm oán hờn lẫn nhau. Có thể thấy, từ thời Nam Tống trở , mặt “Ác” trong những hồn ma treo cổ dần dần bộc lộ. TrongDi kiên ất chí, [/I]quyển hai mươiĐồng ngân tượng[/I], có đoạn miêu tả lại cảnh đối đầu giữa hồn ma treo cổ và người tình sau khi trở mặt nhau: “Từ xà nơi chính giữa gian nhà, hai hồn ma cùng thè ra hai cái lưỡi dài hơn hai thước để tiêu diệt lẫn nhau.” Hình ảnh hai cái lưỡi dài dữ tợn lao vào tương tàn, sát hại lẫn nhau quả thực từ trước đến nay chưa bao giờ có trong lịch sử văn học.
Với tư cách là loại hồn ma hung dữ, hình ảnh “lệ quỷ” trở nên rất đáng thương nhưng cũng vô cùng đáng sợ. Đương nhiên, hình ảnh này có liên hệ mật thiết với dung mạo người chết khi treo cổ tự vẫn: lưỡi thè ra, mắt nhìn trừng trừng vẻ hung dữ, cổ ngoẹo sang bên, tóc thả rũ rượi… Từ những hình ảnh trong thực tế đó, khi bước vào các câu chuyện ma quỷ bao giờ cũng có khuếch trương, phóng đại đến mức nào, bao giờ người viết cũng dụng công miêu tả chi tiết cái lưỡi như điểm nhấn thể thiếu khiến hình ảnh người chết lên thêm phần rùng rợn, kinh hãi.
Cũng bắt đầu từ thời Nam Tống, xuất số câu chuyện về những hồn ma treo cổ thể đầu thai chuyển kiếp. Những hồn ma ấy mãi mãi nằm sâu trong lòng đất, giữa chốn u minh tăm tối, tĩnh mịch, lạnh giá.Di kiên chi chí canh tập, [/I]cuốn sáu với tên gọiXứ Châu khách điện, Tam chí dân tập, [/I]cuốn chín mang tênTiêu dân kiến hồ nhất ti,[/I] hay trongTam chí dã tập, [/I]cuốn bốn có tênPhó cửu Lâm tiểu nữ[/I]… đều ghi chép lại những chuyện có liên quan đến vấn đề nêu . Linh hồn những người treo cổ tự vẫn khi thể đầu thai họ chỉ có thể lưu lạc giữa chốn trần gian mà gây chuyện, quấy phá làm hại dân lành. Những linh hồn ấy phải đợi đến khi có người trần làm công đức thờ cúng, làm lễ giải hồn mới có cơ hội chuyển thế đầu thai kiếp khác. Nhưng điều làm chúng ta băn khoăn là tại sao có những người nguyện treo cổ tự vẫn để giữ gìn phẩm giá sáng trong, để giữ vững cái đạo trung, hiếu, tiết nghĩa của người quân tử, hay cả những kẻ đáng thương vì may rơi vào hoàn cảnh trớ trêu, phải tới bước đường cùng tự tìm đến cái chết, họ khi còn sống hoặc là những kẻ đáng thương, hoặc là những người đáng kính, vậy tại sao khi chết, những vong hồn ấy đều khiến người dân sợ hãi, thậm chí là ghét bỏ đến như vậy?
những thế, thời gian rất lâu sau, đến triều đại nhà Minh lại xuất hồn ma treo cổ tự vẫn bắt buộc phải có “Cầu đại [17] ” mới có thể đầu thai chuyển thể được. Thẩm Đức Phù trongVạn lễ dã hoạch biên [/I]có đoạn viết: “Theo truyền thuyết, hễ có người treo cổ tự vẫn ắt phải tìm người khác thế mạng cho mình mới có thể đầu thai sang kiếp khác.” (Điều này cũng được đến trong cuốn sách khác có tên làLiễu phàm tứ huấn[/I]) Có lẽ chính nguyên nhân này khiến cho những hồn ma treo cổ càng trở nên đáng sợ hơn với con người nơi dương thế. Và tất nhiên, để có thể đầu thai chuyển kiếp được, những hồn ma này tiếc dùng những thủ đoạn lừa gạt, dụ dỗ thậm chí là cưỡng ép người khác tự tìm đến cái chết xà nhà hiu quạnh. Cho dù khi còn sống những hồn ma này là những người trung nghĩa, lương thiện, nhưng khi chết tất cả những phẩm chất ấy thay đổi hoàn toàn, họ trở thành con người ích kỷ đến độ vô liêm sỉ. Viên Mai trongTử bất ngữ,[/I] cuốn mười sáuLiễu như thị vi lệ[/I] [18] ghi chép lại những điều mờ ám trong nhân gian: những hồn ma treo cổ chỉ dụ dỗ con người ta đến quyết định tự tìm cái chết xà nhà, mà còn xui khiến rất nhiều người dân treo cổ hàng loạt. Những hồn ma khi còn sống có nhân phẩm, tướng mạo trong sáng, tuấn tú còn như vậy, huống hồ những bọn chuyên làm hại người khi sống, chuyện khi chết có lẽ cũng chẳng cần bàn luận thêm.
[17] Tức là người dương thế cầu khẩn cúng tế.[/I]
[18] Liễu rủ như lệ.[/I]
Dưới ngòi bút tinh tế, sắc sảo của Viên Mai, những câu chuyện ma quỷ được kể bao giờ cũng chứa nhiều bài học nhân sinh sâu sắc. Theo nhà văn, những hồn ma treo cổ tự vẫn mà linh hồn chưa siêu thoát vẫn thường lang thang khắp chốn dương gian để tìm người thế thân phù hợp với mình, phần lớn đều là những kẻ thất phu, tiểu nữ, nhân cách rất đỗi bình thường. Ngay cả cái chết của họ thực chất cũng chẳng khác gì cái chết theo kiểu “Tự kinh câu hách giả [19] ”. Cho nên, nếu như Thượng Đế khai ân cho những kẻ chết đuối, cho họ hưởng đặc ân sau khi chết được luân hồi chuyển thể mà nhất thiết phải thờ cúng, hương khói, cầu nguyện, những hồn ma treo cổ tự vẫn kia cũng cần được đối đãi như vậy. Thậm chí số trường hợp đặc biệt cũng được phong là minh thần hoặc thần thổ địa. Như vậy, suy nghĩ của Viên Mai hình thành giấc mộng đẹp về bình đẳng trong việc phân chia những đặc quyền đặc lợi giữa các linh hồn chưa siêu thoát. Tuy nhiên, theo kiến giải của chúng tôi, nhà thơ Viên Mai nên đưa ra quy định ràng, đối với những dân nữ bình thường cũng phải hương khói chu toàn mới có thể được siêu thoát, nếu “giấc mộng đẹp” kia rất khó được tán thành.
[19] Chẳng may rơi xuống nước mà chết đuối.[/I]
Từ thời Nam Tống đến nay, những hồn ma treo cổ tự vẫn được liệt vào các loại hồn ma “lách sách”. Vốn khi còn sống họ tìm đến cái chết thê lương, đau đớn là thế, vậy mà khi chết họ lại trở thành hồn ma chuyên làm những việc mờ ám, ác độc, sau này bị phạt được đầu thai chuyển kiếp. Tất cả những điều này nên lý giải ra sao?
Người treo cổ tự vẫn trước đây phần lớn đều vì đói rét cơ hàn mà phải đến bước đường cùng là tự tìm đến cái chết. Nhưng từ thời Nam Tống trở lại đây, đa số những hồn ma treo cổ lại là các hùng, liệt nữ. Có người treo cổ trong hoàn cảnh binh đao loạn lạc, có người treo cổ vì chồng chết nên thủ tiết theo chồng, có người tìm đến cái chết để giữ trọn tấm lòng thủy chung son sắt với vị hôn phu chẳng may qua đời, có người vì bị cưỡng hiếp, uất ức mà treo cổ tự vẫn, có người vì miệng lưỡi thế gian hiểm ác buộc phải tìm đến cái chết để giải thoát cho chính mình… Muôn hình vạn trạng những lý do khác nhau đưa đẩy con người ta đến với cái xà nhà lạnh ngắt để tự kết liễu đời mình. tượng này gây ảnh hưởng lớn đến việc hình thành quan niệm “tiết liệt dị dạng” ngày càng lan tràn trong đời sống xã hội, khiến cho hình thức treo cổ tự vẫn trở thành phương thức được lựa chọn nhanh nhất của những người vốn coi rẻ mạng sống của mình. Đối với triều đình thời đó, treo cổ tự vẫn góp phần tô điểm cho cái xã hội giả dối, bất lương. Với những người treo cổ khi còn sống họ bị ghẻ lạnh, coi thường, đến khi chết họ lại được triều đình liệt vào hàng trung thần liệt nữ, lập gian thờ thắp hương, thờ cúng trang trọng. Còn đối với gia đình, người thân và cả xã hội đó lại là tổn hại ghê gớm đánh vào tâm thức của mỗi con người. Tự đáy lòng mỗi người dân, những con người coi rẻ mạng sống tự tìm đến cái chết vẫn được họ xem là tai nạn đáng thương tâm may xảy đến với mỗi gia đình. TrongHữu đài tiên quán bút ký, [/I]cuốn có đoạn viết:
Huyện Quảng Đông Hoa có ngôi làng . Người dân ở ngôi làng đó sống vui vẻ, quây quần bên nhau. Từ ngôi làng về phía thành phố khoảng hơn mười dặm, có con sông , nước chảy xiết, xanh biếc vắt ngang qua. Nối hai bờ sông là cây cầu sắt. Bên bờ có tảng đá dáng vẻ rất giống ông lão biết đứng đó tự bao giờ. Mọi người trong thôn đều gọi đó là “Kiều đầu thổ địa thần [20] ”, hương hỏa rất cẩn thận. Sau này, trong làng có sáu người con đều ở vậy lấy chồng, hôm, họ cùng hẹn nhau đứng cây cầu mà nhảy sông tự vẫn. Từ đó, người dân nơi đây truyền tai nhau câu chuyện bi thương về sáu người con độ xuân ấy. Mặc dù có thần thổ công đứng bên cầu mà vẫn thể bảo vệ họ thoát khỏi cái chết chìm bi đát. Thấy vậy, người dân nơi đây dần dần phá bỏ tục lệ thờ cúng tảng đá bên sông.[/I]
[20] Thần thổ công đứng ở đầu cầu.[/I]
Cả sáu người con cùng “thủ chí” đồng lòng tìm đến cái chết khi còn xuân trẻ, xét từ phương diện đạo đức điều đó tất yếu gây nên tiếng vang lớn, dư khó quên trong tâm thức người dân làng. Từ đó, nhân dân ngày đêm hương khói, cầu nguyện cho linh hồn họ sớm siêu thoát đầu thai kiếp khác, và mãi truyền tai nhau câu chuyện thương tâm này. Nhưng cũng phải thấy điều trong trường hợp này, cho dù là thần thổ công cũng có cách nào ngăn cản hành động tự sát bất ngờ và có chủ ý của họ, nên việc còn tin tưởng và thờ cúng thần thổ công như trước của dân làng cũng cần phải xem xét. Mọi người đối với việc tự sát cũng tương tự như vậy, ngay cả trường hợp là những người trung nghĩa, liệt nữ, ngoại trừ trường hợp đặc biệt, còn lại là những người thân thiết của họ cũng thể ngồi im mà nhìn con cháu mình tìm đến cái chết mà ngăn cản hay ít ra là cầu nguyện cho họ, huống chi là vị thần. TrongHữu đài thần quán bút ký, [/I]cuốn tám có đoạn tán dương câu chuyện ca ngợi thần thổ công cứu người tự sát. Để cứu những quả phụ mất lòng tin vào cuộc sống mà tìm đến xà nhà treo cổ tự vẫn, thần thổ công dùng cánh tay của mình đỡ lấy chân họ cho đến khi có người kịp đến cứu mới buông ra.
Từ rất sớm, vào khoảng cuối triều Minh, có người phản đối hành động treo cổ tự vẫn của những “người con chưa chồng”. Người con họ Tào buồn rầu, đau khổ vì vị hôn phu qua đời, nàng than khóc, giam mình trong khuê phòng tuyệt thực rồi treo cổ lên xà nhà mà chết. Có lẽ chính cái chết thảm thương của người con họ Tào cảm động đến Triệu Thời Xuân. Để biểu thị quan điểm phản đối của mình, ông viếtTrinh nữ tiết phụ giải [/I]và cho rằng dân nữ họ Tào kia nên vì vị hôn phu chết mà cũng tìm đến cái chết thảm thương như thế.
phản đối của Triệu Thời Xuân trước hành động treo cổ tự vẫn của người con còn xuân tạo nên hiệu ứng thông tin mạnh mẽ. Những người phản đối (trong đó có tác giả củaQuốc xác[/I]) và ngay cả chúng ta cũng có cách nào ngoài việc chỉ có thể dùng những câu chuyện ma quỷ để phản ánh hậu quả nghiêm trọng của việc treo cổ tự vẫn. Và tất nhiên, trong những câu chuyện ma quỷ đó tránh khỏi việc miêu tả những tình tiết thê lương, bi thảm, thậm chí gây cảm giác sợ hãi cho người đọc. Chính những yếu tố này có tác dụng cảnh báo sâu sắc tới những người có ý định treo cổ tự vẫn. Họ, với tư cách là những người nhận được hương hoa mà nhân gian thờ cúng, khó tránh khỏi kiếp trầm luân trong cõi u minh tăm tối, và sa đọa trong đạo đức, đáng giận, đáng ghét! Chúng ta hãy hy vọng qua các câu chuyện ma quái có thể loại trừ phần nào đó quan điểm về tiết liệt ác ý đầy tính dị dạng này.
Những câu chuyện được ghi lại đây tất nhiên có lĩnh hội nhất định. Ông viết tất cả hai câu chuyện ma, trong đó đưa ra nhiều dẫn chứng, phân tích, kiến giải cách sâu sắc. Thứ nhất, qua các câu chuyện, ông muốn mượn lời ma quỷ để phản đối, răn đe những con người coi thường mạng sống của mình:
Thượng Đế nhân từ biết bao! Người bao giờ mong muốn con người tự ý ruồng bỏ sinh mạng quý giá của mình. Những trung thần tận trung với nước, những người phụ nữ tiết hạnh cao quý, họ đều chết cách bất ngờ và đầy uẩn khúc. Còn những người may mắn sống cuộc sống nghèo túng, bế tắc, tìm được con đường mưu sinh thích hợp, họ buộc phải đưa số phận của mình đến bước đường cùng trong đớn đau tuyệt vọng, treo thân mình lên xà nhà lạnh ngắt… Tất cả đều là những câu chuyện vô cùng thương tâm, cũng là những vòng quay luân hồi vô định của bánh xe cuộc đời. Có lẽ, chẳng thể định trước được số phận của mình, duy chỉ có điều “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” là quy luật tất yếu của cuộc đời. Nếu như chỉ vì chút giận dỗi, ít thất vọng, vài đau khổ, khó khăn, cùng cực, giận mình, trách người mà khinh xuất treo mình cái dây thòng lọng quả thực phụ lòng thương, hy vọng của biết bao người thân thương, của biết bao sinh linh vạn vật trong cuộc đời. Chính vì vậy, những linh hồn ấy sau khi chết bị đầy xuống địa phủ, giam cầm trong cõi tối tăm, lạnh lẽo, trăm năm được siêu thoát.[/I]
Ông cũng đưa ra những lời bình luận thêm:
Chắc hẳn ở chốn u minh tăm tối ấy, những linh hồn lạnh lẽo kia cũng tìm cách để được cứu thế, cầu siêu. Nhưng biết với những luật lệ nghiệt ngã chốn ti, liệu có chấp nhận cho những người xấu số kia được đầu thai chuyển kiếp hay ? Tất nhiên, những người vốn coi thường mạng sống của mình cũng bị trừng phạt chẳng khác chi những kẻ hiểm ác, chắc chắn dễ dàng, nhanh chóng được đầu thai. Từ những điều này, người viết muốn nhắn gửi thông điệp tới những người sống trần gian: trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống, dù cho khó khăn, khắc nghiệt đến mức nào cũng phải biết giữ gìn và quý trọng mạng sống của chính mình![/I]
Hai là, tác giả xuất phát từ chính những nỗi thống khổ của người treo cổ tự sát mà đưa ra lời khuyên:
Phàm là những người tiết tháo, kiên trung khi treo cổ tự vẫn, linh hồn thăng thiên từ đỉnh, cho nên cái chết thường đến với họ nhanh hơn, nhàng hơn. Còn những người chết vì phẫn uất, đố kỵ, ghen ghét, linh hồn thường từ trong tim giáng xuống, cho nên cái chết thường đến cách dai dẳng, đau đớn. Trong khoảnh khắc đoạn tuyệt với cuộc đời, hàng trăm tĩnh mạch bỗng nhiên ngừng đập, da thịt bỗng chốc tan vỡ, tê tái như có hàng trăm nhát dao cắt rời từng khúc, từng khúc môt, ruột gan cũng cồn cào, quặn thắt tựa như xuất ngọn lửa bốc cháy mãnh liệt trong lồng ngực, ra sức thiêu đốt đến bỏng rát, tái tê, thể chịu đựng được… Và trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, hình ảnh sống ngày càng mờ xa.[/I]
Như vậy, cách tinh tế và sâu sắc, Thảo Đường đưa ra những kiến giải độc đáo phân biệt ràng hai loại người treo cổ tự vẫn: loại treo cổ để giữ trọn tấm lòng trung nghĩa, loại khác treo cổ chỉ vì những ganh ghét, đố kỵ nhoi. ràng những kiến giải này khác hoàn toàn với những lý giải mà Tùy Viên nêu ra trước đó. Từ những nghiên cứu tưởng chừng vô căn cứ ấy, Thảo Đường khéo léo mượn những câu chuyện ma quỷ để phản đối, cảnh tỉnh những ai có ý định treo cổ tự vẫn hãy biết trân trọng mạng sống quý giá của mình. Lời cảnh tỉnh ấy đến sau này vẫn còn giá trị sâu sắc.
Last edited by a moderator: 1/8/14