Các Anh hùng trên đỉnh Olypus tập 3: Dấu Hiệu Athena-Rick Riordan

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Athena _ Chương 29


      Percy


      PERCY CẢM NHẬN ĐƯỢC TÌNH .

      Trốn chạy khỏi Atlanta vì mấy tên ác thần thần biển cả đủ tệ rồi. Sau lại thất bại ngăn được con tôm khổng lồ tấn công tàu Argo II. Rồi mấy thủy nhân mã, em của Chiron thậm chí còn chả muốn gặp cậu.

      Sau tất cả mấy vụ đó, họ tới chỗ Trụ đá Hercules và Percy phải ở lại tàu trong khi Ông Lớn Jason thăm nom người cùng cha khác mẹ. Hercules, á thần lừng danh nhất mọi thời đại và Percy cũng chả được gặp luôn.

      Thôi được, chắc chắn là từ những điều Piper sau đấy, Hercules là gã khốn, nhưng … Percy chán ở tàu, tới lui boong lắm rồi.

      Ngoài khơi được cho là lãnh địa của cậu. Percy đáng ra phải bước lên phía trước, chịu trách nhiệm và giữ an toàn cho mọi người. Thay vào đó, cả đường qua Đại Tây Dương, cậu gần như chả làm gì ngoài chuyện chun chút với cá mập và nghe HLV Hedge hát mấy ca khúc chủ đề TV.

      Để khiến mọi việc tệ hơn nữa, Annabeth rất xa cách từ khi họ rời Charleston. dành phần lớn thời gian trong khoang của mình, nghiên cứu tấm bản đồ đồng lấy được ở đồn Sumter hay tìm kiếm thông tin trong máy tính xách tay của Deadalus.

      Mỗi khi Percy ghé lại gặp , chìm trong suy tư tới nỗi cuộc đối thoại thành ra thế này:

      Percy: “Này, mọi chuyện thế nào rồi?”

      Annabeth: “Ưm, chả sao cả, cảm ơn.”

      Percy: “Tốt thôi…hôm nay cậu có ăn gì chưa?”

      Annabeth: “Mình nghĩ Leo trực đấy. Hỏi cậu ấy coi.”

      Percy: “Thế là cậu chả thèm nghe mình gì hả[1].”

      Annabeth: “Được rồi. Tí thôi.”

      Thỉnh thoảng lại như thế. trong những thử thách khi hẹn hò với con Athena. Percy vẫn băn khoăn biết phải làm gì khiến chú ý đây. Cậu rất lo cho sau khi chạm trán lũ nhện ở đồn Sumter và cậu chả biết giúp thế nào cho phải, nhất là nếu cứ chặn lời cậu thế này.

      Sau khi rời Trụ Đá Hercules – tổn hại gì ngoài bị vài trái dừa đập vô thân tàu mạ đồng – con tàu bay đến vài trăm dặm.

      Percy mong vùng đất cổ xưa tệ như họ nghe kể. Nhưng nó gần như quảng cáo: Các bạn thấy khác biệt ngay thôi!

      Vài lần giờ lại có cái gì đó tấn công con tàu. đàn chim ăn thịt sống Stymphalian sà xuống từ bầu trời đêm và Festus thiêu trụi chúng. Mấy tinh linh bão xoay quanh cột buồm, Jason dùng sét đánh chúng nổ tung. Khi HLV Hedge dùng bữa tối ở đầu tàu, con ngựa pegasus hoang chả biết từ đâu ra dẫm loạn xạ lên món enchidalas[2] của ông rồi lại bay mất, để lại dấu móng pho mát khắp cả boong.

      “Làm thế làm cái quái gì chớ?” HLV hỏi gặng.

      Nhìn con Pegasus khiến Percy ước gì Blackjack ở đây. Cậu cũng chẳng thấy bạn mình nhiều ngày nay rồi. Tempest với Arion cũng chẳng thấy xuất . có lẽ chúng dám mạo hiểm vô Địa Trung Hải. Nếu vậy, Percy cũng chả trách gì chúng được.

      Cuối cùng tới tầm nửa đêm, sau khoảng chín mười cuộc tấn công , Jason quay qua nhìn cậu. “Có lẽ cậu nên ngủ hơn. Tớ tiếp thục thổi bay cái tụi này ra khỏi bầu trời lâu nhất có thể. Rồi ta có thể đường biển thời gian và để cậu nhận gác.

      Percy chắc cậu có ngủ được khi con thuyền cứ lắc la lắc lư giữa những đám mây vì bị lũ tinh linh gió phẫn nộ rung qua lắc lại, nhưng ý của Jason cũng hay. Cậu xuống khoang dưới và đổ ập xuống giường.

      Những cơn ác mộng của cậu, tất nhiên, trừ thư thái gì cũng có. Cậu mơ mình cái hang tối. Chỉ thấy được vài bộ trước mặt nhưng gian hẳn rộng lớn lắm. Nước giọt đâu đó gần đấy và tiếng động vang dội vào tường hang. Cái cách khí lưu thông khiến Percy cho rằng trần hang ở xa, rất xa phía .

      Cậu nghe tiếng bước chân nặng nề và hai gã khổng lồ sinh đôi Ephialtes với Otis lê bước ra từ bóng tối. Percy chỉ phân biệt được hai gã nhờ đầu tóc – Ephialtes có các bím tóc xanh lục kết các đồng xu vàng và bạc; Otis tóc tết đuôi ngựa với … phải pháo nhỉ?

      Mặt khác, chúng còn ăn mặc giống nhau và trang phục đúng là từ trong cơn ác mộng. Chúng cùng mặc quần âu trắng và áo sơ mi cướp biển vàng kim với cổ chữ V để hở quá nhiều lông ngực. Cả tá dao găm có vỏ bọc xếp hàng thắt lưng đính hột cườm của chúng. Giày chúng là xăng đan hở ngón, chứng minh rằng – phải, thực – chân chúng là lũ rắn. Dây dép quấn quanh cổ tụi rắn. Đầu chúng ngóc lên ở chỗ nên là những ngón chân mới đúng. Tụi rắn hào hứng lè lưỡi và đảo đôi mắt vàng kim về mọi hướng, như mấy con chó nhìn qua cửa kính ô tô vậy. Có lẽ lâu rồi chúng mới được dép có chỗ nhìn.

      Lũ khổng lồ đứng ngay trước mặt Percy nhưng chả thèm chú ý gì tới cậu. Thay vào đó, chúng chăm chú nhìn vô bóng tối.

      “Bọn tôi ở đây,” Ephialtes thông báo. Bất kể giọng ầm ầm của , lời tiêu tán trong hang động, tới khi dội lại chỉ còn rất đáng kể.

      Xa xa phía , thứ gì đó đáp, “Ừ. Ta thấy rồi. Quần áo thế khó mà thấy lắm.”

      Giọng khiến dạ dày Percy sa xuống tận sáu inch. Nghe mơ hồ là nữ, nhưng giống người mảy may. Mỗi từ là tiếng rít méo mó đa bậc như đàn ong sát thủ Châu Phi đồng loạt tiếng .

      phải Gaea. Percy đoan chắc. Nhưng nó có là gì chăng nữa cũng khiến hai tên khổng lồ sinh đôi trở nên căng thẳng. Chúng đổi chỗ và khẽ gật đầu chào khúm núm.

      “Tất nhiên rồi, thưa Lệnh Bà,” Ephialtes . “Chúng tôi mang tin mới–”

      “Sao các người ăn vận kiểu đó?” thứ trong bóng tối hỏi. Bà ta có vẻ tới gần thêm nữa, cũng ổn với Percy.

      Ephialtes ném cho em trai cái nhìn bực tức. “Lẽ ra thằng em tôi phải mặc cái khác. may–”

      “Mày bảo tao là người phóng dao hôm nay mà,” Otis cự lại.

      “Tao bảo tao là người phóng dao hôm nay! Mày là ảo thuật gia! A, thứ lỗi cho tôi thưa Lệnh Bà. Bà muốn nghe bọn tôi gây gổ đâu nhỉ. Chúng tôi đến như bà cầu, mang tin mới đến cho bà. Con tàu tiến gần.”

      Lệnh Bà, dù bà ta là thứ gì nữa, làm tràng rít dữ dội như chiếc lốp xe bị rạch liên tục. Rùng mình cái, Percy nhận ra bà ta cười.

      “Bao lâu nữa?” bà ta hỏi.

      “Chúng đáp xuống Rome ngay sau bình minh, tôi nghĩ thế,” Ephialtes . “Tất nhiên, chúng phải qua ải gã trai vàng cái .”

      Gã chế nhạo như thể gã trai vàng phải kẻ thích gì cho cam.

      “Ta mong chúng đến nơi an toàn,” Phu Nhân bảo. “ mất cả vui nếu bắt được chúng quá sớm. Các người chuẩn bị xong chưa?”

      “Rồi, thưa Lệnh Bà.” Otis bước tới trước và cái hang rung lên. vết nứt xuất dưới con rắn bên trái Otis.

      “Cẩn thận, thằng ngu!” Lệnh Bà gầm gừ. “Ngươi có muốn về lại Tartarus luôn hả?”

      Otis trườn lại, mặt đờ ra kinh hãi. Percy nhận thấy sàn hang trông như đá rắn giống sông băng cậu từng ở Alaska – có chỗ rắn, chỗ khác… rắn mấy. Cậu rất mừng vì mình vô tọng lượng trong mơ.

      “Còn lại rất ít thứ gắn kết nơi này với nhau,” Lệnh Bà cảnh báo. “Ngoại trừ, đương nhiên, kỹ năng của riêng ta. Cơn thịnh nộ hàng thế kỷ của Athena được giữ tốt đến thế này là cùng, và Mẹ Đất Vĩ Đại chìm trong giấc ngủ ngay dưới chúng ta. Giữa hai áp lực đó, nên…tổ của ta mòn dần. Chúng ta phải hy vọng đứa con này của Athena tỏ ra là nạn nhân xứng đáng. Ả có thể là món đồ chơi cuối cùng của ta.”

      Ephialtes nuốt nước bọt. Mắt nhìn vào các vệt nứt sàn. “ lâu nữa nó chả còn quan trọng nữa rồi, thưa Lệnh Bà. Gaea trỗi dậy và tất cả chúng ta được thưởng công. Bà còn phải canh giữ nơi này hay giấu giếm công trình của mình nữa.”

      “Có lẽ thế,” giọng trong bóng tối đáp. “Nhưng ta bỏ lỡ vị ngọt của báo thù. Chúng ta cộng tác tốt với nhau hàng thế kỷ rồi, phải chứ?”

      Cặp sinh đôi cúi đầu. Những đồng xu lấp lánh tóc Ephialtes, và Percy ghê tởm nhận ra chắc chắn số là đồng bạc drachma, y hệt đồng Annabeth nhận từ mẹ .

      Annabeth với cậu, mỗi thế hệ, vài đứa con của Athena lại phải thực nhiệm vụ thu hồi bức tượng Parthenon. Chưa từng có người thành công.

      Chúng ta cộng tác tốt với nhau hàng thế kỷ rồi…

      Gã khổng lồ Ephialtes có những đồng xu trị giá hàng thế kỷ bím tóc – hàng trăm chiến lợi phẩm. Percy tưởng thấy Annabeth đơn độc đứng ở nơi tăm tối này đây. Cậu tưởng tượng thấy gã khổng lồ kia lấy đồng xu mang theo và thêm vào bộ sưu tập của . Percy muốn rút gươm và cắt phăng tóc gã từ cổ, nhưng cậu bất lực. Cậu chỉ có thể đứng xem.

      “A, Lệnh Bà.” Ephialtes lo lắng . “Tôi muốn nhắc bà là Gaea muốn đứa con bị bắt sống. Bà có thể hành hạ nó. Khiến nó phát điên. Tất nhiên, bất kì điều gì bà muốn. Nhưng máu của nó phải đổ những khối đá cổ xưa.”

      Lệnh Bà rít lên. “Những đứa khác dùng thế cũng được cơ mà.”

      “P-Phải,” Ephialtes . “Nhưng đứa này được ưa thích hơn. Và thằng nhóc – con trai Poseidon. Bà hiểu được tại sao hai đứa nó lại phù hợp với việc này mà.”

      Percy chắc điều đó có nghĩa là gì, nhưng cậu muốn đập nát sàn hang và cho cặp song sinh áo vàng ngu độn kia xuống địa ngục tức . Cậu bao giờ để Gaea tế máu cậu làm bất cứ cái gì – và đời nào cậu để bất cứ kẻ nào làm tổn thương Annabeth.

      “Cứ để coi,” Lệnh Bà gầm gừ. “ . lo việc chuẩn bị của tụi bay . Tụi bay có màn trình diễn của mình. Và ta…ta làm việc trong bóng tối.”

      Giấc mơ tan biến và Percy tỉnh mộng[3].

      Jason gõ vô cánh cửa mở khoang cậu.

      “Chúng ta vừa hạ xuống nước,” cậu , trông hoàn toàn kiệt sức. “Đến lượt cậu đấy.”

      Percy muốn, nhưng cậu đánh thức Annabeth. Cậu nghĩ ngay cả HLV Hedge cũng chả bận tâm việc họ chuyện sau giờ giới nghiêm nếu đó là việc cung cấp thông tin có thể cứu mạng .

      Họ đứng boong, mình ngoại trừ Leo, người trông coi bánh lái. Cậu chàng chắc kiệt sức lắm rồi nhưng vẫn từ chối ngủ.

      “Mình muốn thêm vụ bất ngờ Quái Tôm nào nữa,” cậu khăng khăng.

      Họ cố thuyết phục Leo rằng vụ con skolopendra tấn công hoàn toàn là lỗi ở cậu, nhưng cậu nghe. Percy biết cảm giác của cậu. tha thứ lỗi lầm bản thân là trong những tài năng lớn nhất của Percy.

      Khoảng bốn giờ sáng. Thời tiết tồi tệ. Sương quá dày, Percy thể thấy Festus chỗ cuối mũi tàu, và mưa phùn ấm giăng giữa tầng như tấm rèm hạt. Khi họ chèo vào những sóng cao hai mươi foot, biển nhộn nhạo bên dưới họ, Percy có thể nghe thấy Hazel đáng thương dưới khoang của mình…cũng nhộn nhạo.

      Dù thế, Percy vẫn rất cảm kích được trở lại mặt nước. Cậu thích thế nay hơn là bay qua mây bão, bị tấn công bởi bọn chim ăn thịt người và tụi Pegasus chà đạp enchilada.

      Cậu đứng cùng Annabeth ở lan can phía trước mũi tàu khi kể nghe giấc mơ của mình.

      Percy chắc tiếp nhận tin này thế nào. Phản ứng của thậm chí còn đáng lo ngại hơn cậu dự đoán: chẳng có vẻ gì ngạc nhiên cả.

      chăm chú nhìn màn sương mù. “Percy, cậu phải hứa với mình điều. Đừng kể cho những người khác về giấc mơ này.”

      “Đừng gì cơ? Annabeth–”

      “Những điều cậu thấy là về Dấu hiệu Athena,” bảo. “Những người khác biết chả ích gì. Nó chỉ khiến họ thêm lo và khiến mình khó mình khởi hành hơn.”

      “Annabeth, cậu nghiêm túc đó chứ. Thứ trong bóng tối đấy, căn phòng lớn với sàn phòng đổ nát–”

      “Mình biết.” Mặt nhợt nhạt thiếu tự nhiên và Percy ngờ rằng đó chỉ là tại sương mù mà thôi. “Nhưng mình phải làm mình.”

      Percy nuốt xuống cơn giận. Cậu chẳng mình nổi điên nổi đóa với Annabeth, giấc mơ của bản thân hay là cả thế giới Hy Lạp/La Mã tồn tại và định hình lịch sử nhân loại tận năm nghìn năm với mục tiêu duy nhất: khiến đời cái thằng Percy Jackson càng khốn càng hay.

      “Cậu biết có gì trong cái hang đó,” cậu đoán. “Có phải liên quan đến nhện ?”

      “Phải,” giọng đáp.

      “Thế sao cậu lại có thể…?” Cậu tự ép mình phải dừng.

      khi Annabeth quyết định tranh cãi với cũng chả ích gì. Cậu nhớ cái đêm ba năm rưỡi trước, khi họ cứu Nico và Bianca di Angelo ở Maine. Annabeth bị Titan Atlas bắt. có lúc Percy chắc còn sống hay chết. Cậu băng qua cả đất nước để cứu khỏi tay tên Titan. Đó là những ngày khó khăn nhất đời cậu – chỉ bởi lũ quái vật hay phải chiến đấu, mà còn vì nỗi lo.

      Sao cậu có thể cố ý để lúc này khi biết đâm đầu vào nơi thậm chí nguy hiểm gấp bội?

      Sau đó cậu chợt nhận ra: cảm xúc của cậu trước đó, trong mấy ngày ấy, có lẽ cũng là cảm xúc của Annabeth trong sáu tháng cậu mất tích và mất trí nhớ.

      Việc đó khiến cậu thấy tội lỗi và hơi chút ích kỷ mà đứng đây cãi vã với . phảithực nhiệm vụ này. Số phận thế giới có lẽ phụ thuộc vào điều này. Nhưng phần trong cậu muốn bảo: Quên quách thế giới . Cậu muốn sống thiếu .

      Percy chăm chăm ngó màn sương. Cậu thấy được bất cứ thứ gì quanh họ nhưng lại có mối liên hệ hoàn hảo với biển. Cậu biết chính xác vĩ độ và kinh độ chỗ họ. cậu biết chính xác độ sâu của biển và hướng chảy hải lưu. Cậu biết tốc độ con tàu và cảm ứng được có bất kỳ mỏm đá, bãi cát hay những mối hiểm nguy tự nhiên nào đường . Dù thế, bị mù vẫn đáng lo ngại.

      Họ vẫn chưa bị tấn công từ khi hạ thủy nhưng biển lại cứ khang khác. Percy từng ở Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, kể cả Vịnh Alaska, nhưng biển này mang lại cảm giác cổ xưa và quyền năng hơn. Percy cảm ứng được các tầng nước xoáy cuộn phía dưới. Mọi người hùng Hy Lạp hay La Mã đều từng chèo qua đây – từ Hercules tới Aeneas[4]. Quái vật vẫn cư ngụ dưới đáy sâu, bị bao bọc sâu trong Màn Sương Mù nên ngủ suốt, nhưng Percy thấy chúng cựa quậy, phản ứng với thân tàu bằng đồng Thiên Thai của thuyền cổ ba tầng chèo Hy Lạp và diện của máu á thần.

      Chúng trở lại rồi, lũ quái dường như . Cuối cùng cũng có máu tươi.

      “Chúng ta còn xa bờ biển Ý nữa đâu,” Percy , gần như để phá tan im lặng. “Khoảng trăm hải lý nữa là tới cửa sông Tiber.”

      “Tốt,” Annabeth bảo. “Trước bình minh, ta nên–”

      “Dừng lại.” Da Percy như nhúng qua nước đá. “Ta phải dừng lại.”

      “Tại sao?” Annabeth hỏi.

      “Leo, dừng ngay!” cậu hét.

      Quá muộn. con tàu khác ra từ màn sương và đâm đầu vào họ. Giây lát ấy, Percy nắm bắt được vài chi tiết ngẫu nhiên: tuyền ba tầng chèo khác; buồm sơn đen vẽ đầu ả tóc rắn, lũ chiến binh thô kệch, giống người lắm, tụ tập trước thuyền trong giáp phục Hy Lạp, gươm giáo sẵn sàng; rầm đồng ngang mực nước, đâm sầm vô thân tàu Argo II.

      Annabeth với Percy gần như bị ném văng khỏi tàu.

      Festus phun lửa, tống cả tá chiến binh vô cùng bất ngờ la hét lặn xuống biển, nhưng còn nhiều tên khác bu lấy tàu Argo II. Móc dây quanh lan can và cột buồm, cắm móng sắt vô thân ván tàu.

      Lúc Percy khôi phục thần trí, địch rải khắp nơi. Cậu thể nhìn qua sương mù và bóng tối, nhưng những tay xâm lược có vẻ là lũ cá heo giống người hay người giống cá heo. Mấy tên có mõm xám. Những tên khác cầm gươm bằng tay chèo[5]. Vài thằng lạch bạch đôi chân phần nào dính lại với nhau trong khi những kẻ khác có chân chèo thay vì bàn chân khiến Percy nhớ đến đôi giày hề.

      Leo rung chuông cảnh báo. Cậu nhào tới chiếc nỏ phóng tiễn gần nhất nhưng bị đè dưới cả đống chiến binh cá heo quàng quạc.

      Annabeth với Percy đứng lưng kề lưng như từng làm nhiều lần trước đây, rút vũ khí ra. Percy cố triệu hồi sóng biển, mong rằng đẩy được hai tàu tách nhau ra hay thậm chí là đánh lật tàu địch, nhưng chả có gì xảy ra. Gần như cảm thấy có gì đó đẩy ngược lại ý cậu, giành lại biển khơi từ quyền kiểm soát của cậu.

      Câu giương cao thanh Thủy Triều, sẵn sàng chiến đấu, nhưng họ bị áp đảo tới mức tuyệt vọng. Vài tá chiến binh cá heo hạ giáo và vây thành vòng quanh họ, khôn ngoan giữ khoảng cách xa tầm tấn công của thanh kiếm của Percy. Lũ người cá heo há mõm tạo ra những tiếng huýt gió và lốp bốp ầm ĩ. Percy chưa từng nghĩ răng cá heo ghê tới mức nào.

      Cậu cố suy nghĩ. Có khi cậu có thể phá vây thoát ra và tiêu diệt vài kẻ xâm lăng, nhưng đó là có những tên khác xiên thịt cậu và Annabeth.

      Ít ra tụi chiến binh có vẻ thích thú giết cậu ngay. Chúng giữ Percy và Annabeth bị vây ở trong khi thêm nhiều đồng bọn nữa của chúng ào xuống khoang dưới và canh giữ thân tàu. Percy có thể nghe chúng đập vỡ cửa các khoang, xô xát với bạn bè mình. Dù cho các á thần khác ngủ say chăng nữa, cũng chả có lấy chút cơ hội nào phản kháng nhiều tên đến vậy.

      Leo bị kéo qua boong tàu, nửa mê nửa tỉnh, rên rỉ và bị ném vào giữa đống dây thừng. Phía dưới, tiếng đánh nhau giảm dần. Hoặc những người khác bị khuất phục hoặc…hoặc Percy từ chối nghĩ về điều đó.

      bên vòng vây bằng giáo, lũ chiến binh cá heo tách ra cho ai đó qua. Gã có vẻ hoàn toàn là người, nhưng nhìn cái cách lũ cá heo lùi lại trước gã, ràng gã là thủ lĩnh rồi. Gã vận chiến giáp Hy Lạp – xăng đan, váy, giáp ống chân và giáp che ngực trang trí mẫu quái vật biển tinh vi – mọi thứ gã vận là vàng. Kể cả gươm, lưỡi gươm Hy Lạp như Thủy Triều, nhưng bằng vàng thay vì đồng.

      Gã trai vàng, Percy nghĩ, nhớ tới giấc mơ. Chúng phải qua ải gã trai vàng cái .

      Cái thực khiến Percy lo lắng là mũ bảo hiểm của gã kia. Tấm che mặt của là tấm mặt nạ cả mặt tạo hình chiếc đầu gorgon – nanh cong, nét mặt khủng khiếp ép lại thành mớ rùm beng và mái tóc rắn vàng cuốn quanh khuôn mặt. Percy từng gặp gorgon trước đây. Miêu tả rất sát – hơi quá sát với khẩu vị của cậu.

      Annabeth quay lại thành ra vai kề vai Percy. Cậu muốn ôm choàng lấy mà che chở, nhưng cậu ngờ chả đánh giá cao hành đó tí nào, và cậu muốn cho gã trai vàng thấy bất cứ dấu hiệu nào rằng Annabeth là bạn cậu. Chả tội gì cho kẻ thù nhiều điểm lợi dụng hơn những gì chúng sẵn có.

      “Các người là ai?” Percy gặng hỏi. “Các người muốn gì hả?”

      Gã chiến binh vàng cười khúc khích. Bằng cú vụt lưỡi gươm, nhanh hơn mức Percy theo kịp, gã thảy Thủy Triều khỏi tay Percy và hất văng nó xuống biển.

      Có lẽ gã cũng vừa quẳng luôn phổi Percy xuống biển, bởi đột nhiên Percy thở nổi. Cậu chưa từng bị tước vũ khí dễ dàng đến thế.

      “Chào, người em.” Giọng gã chiến binh vàng trầm ấm mượt mà với nhấn nhá kỳ lạ – Trung Đông, có lẽ vậy – mà có vẻ hơi quen thuộc. “Luôn rất vui được cướp thằng cũng con trai của Poseidon. Tên tao là Chrysaor, Gươm Vàng. Và những gì tao muốn…” Gã quay chiếc mặt nạ vàng sang Annabeth. “Ồ, dễ thôi. Tao muốn mọi thứ mày có.”




      [1] my hair is on fire: thành ngữ, khi người khác k chịu nghe mình , thaái độ bực mình

      [2] enchilada: Món ăn Mexico và Tex-Mex cuốn thịt gà hay gà tây và phó mát, đậu… trong bánh tortilla bằng bắp, xốt cà chua, ớt, hoặc sô--la, rồi nướng lên.







      [3]wake with a start: tỉnh lại sau 1 giấc ngủ toàn mộng mị, k ngủ sâu

      [4]Trong thần thoại Hy Lạp, Aeneas (tiếng Hy Lạp: Αἰνείας, Aineías; phát như I-ni-át) là hùng của thành Troia, là con trai của Anchises và nữ thần tình Aphrodite (Venus trong thần thoại La Mã). Cha của ông là em họ của vua Priam của thành Troia. Cuộc hành trình của Aeneas từ Troia, (do Aphrodite chỉ dẫn) điều dẫn đến thành lập Roma, được đề cập đến trong sách Aeneid của Virgil. Đồng thời Aeneas cũng là nhân vật trong truyện Iliad của Homer và trong vở kịch Troilus and Cressida của William Shakespeare.

      [5]loại chân chèo hay thấy ở rùa, cá heo, cá voi, ở đây cầm kiếm nên để tay chèo cho hợp













      The Mark of Athena _ Chương 30


      Percy


      TIM PERCY NHẢY TƯNG TƯNG trong khi Chrysaor tới lui, đánh giá họ như những chiến lợi phẩm. Khoảng tá chiến binh nửa người nửa cá heo đứng thành vòng tròn xung quanh, mũi giáo chĩa vào ngực Percy, trong khi khoảng hơn tá khác lục soát con tàu, gây ra những tiếng ầm ĩ dưới boong.

      tên ôm hộp bánh thánh bước lên cầu thang. tên khác ôm thùng Lửa Hy Lạp trong tay.

      “Cẩn thận với thứ đó!” Annabeth cảnh báo. “Nó làm nổ tung cả hai con tàu đấy.”

      “Ha!” Chrysaor . “Bọn ta biết tất cả về Lửa Hy Lạp, . Đừng lo lắng. Bọn ta cướp tàu ở Địa Trung Hải nhiều niên kỷ rồi.”

      “Giọng nghe quen lắm,” Percy . “Chúng ta từng gặp nhau chưa nhỉ?”

      “Tao có được hân hạnh đó.” Chrysaor gầm gừ với cậu qua lớp mặt nạ nữ thần đầu rắn bằng vàng mặc dù thấy được biểu của bên dưới nó. “Nhưng tao nghe rất nhiều về mày, Percy Jackson. Ồ, đúng, chàng trai trẻ, người giải cứu Olympus. Và người phụ tá trung thành của mình, Annabeth Chase.”

      “Tôi phải là phụ tá của ai cả,” Annabeth gầm gừ. “Và, Percy, giọng có vẻ quen thuộc bởi vì nó giống với giọng của mẹ . Chúng ta giết bà ta ở New Jersey.”

      Percy cau mày. “Mình khá chắc rằng đây phải là giọng New Jersey. Ai là…? Ồ.”

      Tất cả đều trùng khớp. Chợ Vườn Thần Lùn dì Em–hang ổ của Medusa. Bà ta cùng chất giọng đó, ít nhất là cho đến khi Percy cắt đầu bà ta.

      “Medusa là mẹ của á?” Cậu hỏi. “Tiếc cho quá, bạn.”

      Xét theo những thanh từ cổ họng Chrysaor, có lẽ lại gầm gừ lần nữa qua lớp mặt nạ.

      “Mày đúng là kiêu ngạo hệt như tên Perseus đầu tiên,” Chrysaor . “ Nhưng, đúng, Percy Jackson. Poseidon là cha tao. Medusa là mẹ tao. Sau đó Medusa bị biến thành quái vật bởi kẻ được gọi là nữ thần trí tuệ…” Cái mặt nạ vàng quay phắt sang Annabeth. “Đó chính là mẹ của mày. Ta tin rằng…hai đứa con của Medusa vẫn còn mắc kẹt bên trong bà, chưa được sinh ra. Khi tên Perseus đầu tiên cắt đầu của Medusa–”

      “Hai đứa trẻ nhảy ra,” Annabeth nhớ lại. “Pegasus và .”

      Percy chớp mắt. “Vậy ra trai con ngựa có cánh. Nhưng em cùng cha khác mẹ với tôi, có nghĩa là tất cả những con ngựa bay thế giới là… biết ? Quên .”

      Cậu học được từ vài năm trước đây rằng nên chú tâm quá nhiều vào những mối quan hệ của thần thánh. Sau khi Cyclop Tyson nhận cậu là trai, Percy quyết định xem đó như việc mở rộng phạm vi gia đình.

      “Nhưng nếu là con của Medusa,” cậu , “tại sao tôi chưa bao giờ nghe đến ?”

      Chrysaor thở dài trong giận dữ. “Khi trai mày là Pegasus, mày dễ dàng bị lãng quên. Ồ, nhìn kìa, con ngựa có cánh! Có ai quan tâm đến tao ? !” nâng mũi kiếm lên ngang đôi mắt Percy. “Nhưng đừng đánh giá thấp tao. Tên của tao là Gươm Vàng cũng là có lý do.”

      “Vàng Hoàng Gia?” Percy đoán.

      “Hừ! Vàng Tiên Thuật, phải. Sau đó, người La Mã gọi nó là Vàng Hoàng Gia, nhưng tao là người đầu tiên sử dụng môt thanh kiếm như vậy. Lẽ ra tao trở thành vị hùng nổi tiếng nhất mọi thời đại! Từ khi những kẻ-kể-chuyện-thần-thoại đó phớt lờ tao, tao lại trở thành kẻ phản diện. Tao quyết định sử dụng những gì tao được thừa hưởng. Là con trai của Medusa, tao gieo rắc kinh hoàng. Là con trai của Poseidon, tao cai trị các vùng biển!”

      trở thành cướp biển,” Annabeth kết luận.

      Chrysaor dang tay, điều đó tốt với Percy, nó khiến mũi kiếm cách xa mắt cậu.

      “Tên cướp biển giỏi nhất,” Chrysaor . “Tao tung hoành trong vùng biển này trong nhiều thế kỷ, cướp bóc những tên á thần ngu ngốc thăm dò về Địa Trung Hải. Bây giờ đây là lãnh thổ của tao. Và tất cả những gì của tụi bay là của tao.”

      trong những tên chiến binh nửa người nửa cá heo lôi HLV Hedge từ dưới hầm tàu lên.

      “Thả ta ra, đồ cá ngừ!” Hedge gầm lên. Ông cố gắng để đá tên chiến binh, nhưng cái móng chỉ làm bộ áo giáp phát ra tiếng kêu leng keng. Xét từ các dấu móng in áo giáp và mũ sắt của tên chiến binh nửa người nửa cá heo, có thể thấy huấn luyện viên rất cố gắng.

      “À, thần rừng.” Chrysaor trầm ngâm. “Còn trẻ và dẻo dai, đám Cyclopes trả tiền cho mẩu thức ăn như ngươi. Trói lại.”

      “Ta phải là thịt dê!” Hedge phản đối.

      “Tốt hơn là bịt miệng lại,” Chrysaor quyết định.

      “Đồ nhóc con mạ vàng nhà ngươi–” lời sỉ nhục của Hedge bị cắt ngang khi tên cá heo nhét nùi vải nhờn vào miệng ông. Ngay sau đó huấn luyện viên bị trói gô như con bê và ném sang chỗ khác–nơi để những cái thùng đựng thức ăn, vũ khí bổ sung, cả những rương nước đá ma thuật từ nhà ăn.

      “Mấy người thể làm như vậy!” Annabeth hét lên.

      Tiếng cười của Chrysaor vang dội từ trong cái mặt nạ vàng của . Percy tự hỏi liệu khuôn mặt dưới lớp mặt nạ có bị biến dạng khủng khiếp, hoặc liệu ánh mắt của ta có thể hóa đá người khác như cách mà mẹ có thể làm.

      “Ta có thể làm bất cứ điều gì ta muốn,” Chrysaor . “những chiến binh của ta được huấn luyện hoàn hảo. Chúng xấu xa, tàn bạo–”

      “Những con cá heo,” Percy lưu ý.

      Chrysaor nhún vai. “Đúng. Vậy sao? Chúng gặp may vài thiên niên kỷ trước, bắt cóc sai người. vài người trong thủy thủ đoàn hoàn toàn biến thành cá heo. số khác trở nên điên loạn. Những…những kẻ tồn tại như những sinh vật lai. Khi tao tìm thấy chúng ở dưới biển và cho chúng cuộc sống mới, chúng trở thành thủy thủ đoàn trung thành của tao. Chúng sợ gì cả!”

      trong những tên chiến binh tỏ ra lo lắng.

      “Đúng, đúng.” Chrysaor gầm gừ. “Chúng sợ thứ, nhưng điều đó quan trọng. ta đâu có ở đây.”

      ý tưởng xẹt qua trong óc Percy. Trước khi cậu kịp đuổi theo nó, những tên chiến binh cá heo leo lên cầu thang, lôi những người bạn còn lại của cậu lên. Jason bất tỉnh. Xét từ những vết bầm tím mặt cậu, có thể thấy cậu cố gắng để chiến đấu. Hazel và Piper bị trói cả tay và chân. Piper bị nhét nùi vải trong miệng, như vậy ràng là những tên cá heo này phát ra có thể quyến rũ bằng giọng . Frank là người duy nhất mất tích, mặc dù hai trong số những tên cá heo có đầy vết ong chích mặt.

      Frank có thể biến thành đàn ong? Percy hy vọng như vậy. Nếu cậu ấy được tự do ở nơi nào đó tàu, có thể đó là thuận lợi, giả như Percy có thể tìm được cách giao tiếp với cậu chẳng hạn.

      “Tuyệt vời!” Chrysaor hả hê. chỉ đạo mấy tên chiến binh ném Jason xuống sàn tàu cạnh những chiếc nỏ. Sau đó xem xét các như thể họ là quà Giáng sinh, điều đó khiến Percy giận đến nghiến răng.

      “Thằng nhóc đó hữu dụng với ta,” Chrysaor . “Nhưng chúng ta biết mụ phù thủy Circe. Mụ ta mua phụ nữ–làm nô lệ hoặc học viên, tùy thuộc vào khả năng của họ. Nhưng phải , Annabeth đáng .”

      Annabeth lùi lại. “Mi thể đưa ta bất cứ đâu.”

      Tay của Percy len lỏi vào túi của mình. Cây bút của cậu xuất trở lại trong chiếc quần jeans. Cậu có chút bối rối khi rút thanh kiếm ra. Có lẽ nếu cậu có thể hạ gục Chrysaor cách nhanh chóng, thủy thủ đoàn của hoảng loạn.

      Cậu ước gì mình có thể biết điều gì đó về điểm yếu của Chrysaor. Thường Annabeth là người cung cấp cho cậu những thông tin như vậy, nhưng ràng là Chrysaor có bất kỳ huyền thoại nào, vì vậy tất cả đều ở trong bóng tối.

      Tên chiến binh vàng tặc lưỡi. “Ồ, đáng buồn, Annabeth, ở lại đây với ta. Ta rất muốn. Nhưng và bạn Percy cũng . nữ thần trả số tiền thưởng rất cao để bắt –còn sống, nếu có thể, mặc dù phải nguyên vẹn gì.”

      Đúng lúc đó, Piper gây ra nhiễu loạn mà họ cần. kêu gào ầm ĩ đến mức có thể nghe thấy được qua nùi vải. Sau đó , ngất , tựa người vào tên lính canh gần nhất, đẩy ta sang bên. Hazel hiểu ý và sụp xuống sàn tàu, đá chân lung tung và phối hợp cách hoàn hảo.

      Percy rút thanh Thủy Triều ra và tấn công. Lưỡi kiếm tiến thẳng đến cổ của Chrysaor, nhưng ngờ tên chiến binh vàng nhanh hơn.

      né tránh và đỡ đòn trong khi những tên chiến binh cá heo lui lại, canh gác những người bị bắt khác trong khi chỉ huy của chúng chiến đấu. Chúng kêu gào, rít thé và cổ vũ , Percy nghi ngờ rằng thủy thủ đoàn quen với trò giải trí kiểu này. Chúng hề cảm thấy thủ lĩnh của mình gặp bất cứ nguy hiểm gì.

      Percy lâu đọ gươm với đối thủ như thế này từ khi…phải, từ khi cậu đấu với thần chiến tranh Ares. Chrysaor cũng giỏi hệt thế. Rất nhiều quyền năng của Percy trở nên mạnh hơn qua mấy năm nay, nhưng bây giờ, quá muộn, Percy nhận thấy kiếm thuật của cậu chẳng phải trong số những quyền năng ấy.

      Cậu khá tệ–ít nhất là đối với đối thủ như Chrysaor.

      Họ chiến đấu và tiến gần, đẩy mạnh rồi tránh né. Vô tình, Percy nghe thấy giọng của Luke Castellan, người thầy dạy đấu kiếm đầu tiên của cậu ở Trại Con Lai, gạt hết suy tư. Nhưng nó giúp ích được gì.

      Cái mặt nạ nữ hoàng đầu rắn bằng vàng rất khó chịu. Sương mù ấm nóng, sàn tàu trơn trượt, những tiếng huyên náo của lũ chiến binh–chả thứ gì có ích hết trơn. Và qua khóe mắt của mình, Percy có thể thấy trong số chiến binh cá heo cầm con dao kề vào cổ họng Annabeth để phòng trường hợp cố giở trò gì đó.

      Cậu nhử và đâm vào bụng Chrysaor, nhưng Chrysaor đoán được. gạt thanh kiếm của Percy ra khỏi tay cậu và thanh Thủy Triều lần nữa rơi xuống biển.

      Chrysaor cười như nắc nẻ. thậm chí thở được nữa. ấn mũi kiếm vàng của xuống ức Percy.

      “Nỗ lực khá đấy,” tên cướp biển . “Nhưng bây giờ mày được trói lại và giao cho lũ tay sai của Gaea. Chúng khá háo hức hiến tế máu của mày và đánh thức nữ thần đó.”

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Athena _ Chương 31


      Percy


      CÁI KHÓ LÓ CÁI KHÔN.

      Khi Percy đứng đấy, bị tước vũ khí và bị áp đảo, kế hoạch hình thành trong đầu cậu. Cậu quá quen với việc được Annabeth cung cấp trông tin về truyền thuyết Hy Lạp nên rất bỡ ngỡ với việc thực phải nhớ ra cái gì hữu ích, nhưng cậu phải hành động nhanh. Cậu khổng thể mặc cho bất cứ chuyện gì xảy ra với bạn bè mình. Cậu để mất Annabeth- mất lần nữa.

      Chrysaor thể bị đánh bại. Ít ra phải là đấu tay đôi. Nhưng khi có thủy thủ đoàn của …có khi lúc ấy bị áp đảo nếu có đủ á thần tấn công cùng lúc.

      Giải quyết thủy thủ đoàn của Chrysaor thế nào đây? Percy suy luận: tên cướp biển bị biến thành người-cá-heo hàng thiên niên kỷ trước khi bắt cóc nhầm người. Percybiết câu chuyện đó. Chết tiệt, người bị bắt nhầm trong trường hợp đó đe dọa biếnhắn thành cá heo. Và khi Chrysaor bảo thủy thủ đoàn sợ bất cứ thứ gì, trong những con cá heo lo lắng sửa lại. Phải, Chrysaor bảo. Nhưng ta đâu có ở đây.

      Percy liếc về phía đôi tàu và phát ra Frank, trong hình dáng con người, nhìn trộm ra từ phía sau chiếc nỏ phóng tiễn, đợi. Percy gượng cố cười. Cậu chàng to con bị coi là vụng về vô dụng nhưng lại luôn ở ngay đúng chỗ khi Percy cần tới.

      Các …Frank…thùng nước đá.

      Đó là ý tưởng điên rồ. Nhưng, như thường lệ, đó là tất cả những gì mà Percy có.

      “Được thôi!” Percy hét tướng, to tới nỗi ai cũng chú ý tới cậu. “Cứ đưa tụi ta nếu thuyền trưởng của tụi ta cho phép.”

      Chrysaor quay cái mặt nạ vàng lại. “Thuyền trưởng nào? Người của tao lục soát hết con tàu. Chả còn ai khác nữa.”

      Percy điệu nghệ giương tay lên. “Vị thần chỉ xuất khi nào ngài muốn. Nhưng ngài là thủ lĩnh của tụi này. Ông ấy điều hành trại á thần của tụi ta. Phải , Annabeth?”

      Annabeth nhanh nhảu. “Phải!” hào hứng gật đầu. “Ngài D! Thần Dionysus Vĩ Đại!”

      làn sóng bồn chồn lan qua lũ người-cá-heo. tên đánh rơi gươm.

      “Vào hàng ngay!” Chrysaor gầm lên. “Đếch có thần thánh nào tàu sất. Bọn nó cố dọa tụi bay đó.”

      “Tụi bay nên sợ là hơn!” Percy nhìn đoàn cướp biển vẻ thông cảm. “Dionysus cáu tụi bay vì làm chậm hành trình của tụi tao lắm. Ổng trừng trị cả lũ ở đây. Tụi mày thấy mấy phải chịu cơn điên của thần rượu chưa?”

      Hazel với Piper ngừng run rẩy từng cơn. Họ ngồi boong, chằm chằm ngó Percy, nhưng khi cậu trừng trừng nhìn thẳng vào họ, họ lại run lên lần nữa, run bần bật rồi quẫy trườn như cá. Bọn người-cá-heo ngã đè lên nhau, cố tránh tù nhân của chúng càng xa càng tốt.

      “Điêu!” Chrysaor gầm gào. “Câm ngay, Percy Jackson. Giám đốc trại tụi bay đâu có ở đây. Lão ta bị gọi về Olympus rồi. Việc này ai mà chả biết.”

      “Thế mày thừa nhận Dionysus là giám đốc tụi tao đấy nhá!” Percy đáp.

      “Lão từng là,” Chrysaor chữa lại. “Ai ai chả biết.”

      Percy ra hiệu về phía gã chiến binh vàng như thể gã mới vừa tự phản bội chính mình. “Thấy chưa? Tới số cả lũ rồi. Nếu tin lời tụi tao coi cái thùng nước đá kìa!”

      Percy xộc tới bộ phận tản nhiệt ma thuật. ai cố ngăn cậu lại. Cậu gõ bật nắp và lục lọi trong thùng nước đá. Phải có lấy cái chớ. Làm ơn . Cậu được thưởng can soda đỏ-bạc. Cậu khua nó trước mặt lũ chiến binh cá heo như xịt thuốc chống côn trùng.

      “Coi này!” Percy hét lên. “Thứ nước giải khát ngài chọn. Hãy run sợ trước kinh hoàng của Coca ăn kiêng[1].”

      Lũ người-cá-heo bắt đầu hoảng loạn. Bọn chúng toan rút lui. Percy cảm thấy thế.

      “Thần tước con tàu của bọn bay,” Percy cảnh báo. “Ngài biến tụi bay thành cá heo hoàn toàn hay khiến tụi bay điên loạn hoặc biến tụi bay thành cá heo điên! Hi vọng duy nhất của tụi bay là lặn càng xa càng tốt, mau !”

      “Lố bịch!” Chrysaor trở nên chói tai. Gã chắc nên chĩa gươm của mình vô đâu – vô Percy hay thủy thủ đoàn của mình.

      “Tự cứu lấy mình !” Percy cảnh cáo. “Với bọn ta quá muộn rồi!”

      Rồi cậu thở hổn hển và chỉ vào chỗ Frank trốn. “Ôi, ! Frank biến thành cá heo điên!”

      Chả có gì xảy ra.

      “Tớ bảo,” Percy nhắc lại, “Frank biến thành cá heo điên!”

      Frank vấp váp xuất , tay nắm cổ họng diễn như . “Ôi, ,” cậu kêu lên như thể đọc ra từ cái máy phóng đại chữ. “Tôi biến thành cá heo điên.”

      Cậu bắt đầu biến đổi, mũi kéo dài thành mõm, da biến trơn xám xịt, đuôi đạp mạnh vô ván thuyền.

      Đoàn cướp biển kinh hãi tan rã, run lẩy bẩy và răng đánh lập cập buông vũ khí, quên hết cả tù nhân, lờ luôn lệnh của Chrysaor và nhảy ra khỏi tàu. Trong lúc hỗn loạn, Annabeth nhanh chóng tới cắt xiềng xích cho Hazel, Piper với HLV Hedge.

      Trong vài giây, Chrysaor chỉ còn lại có mình và bị bao vậy. Percy với bạn mình chả có vũ khí gì ngoài con dao của Annabeth và vó của HLV Hedge, nhưng ánh nhìn giết người của họ ràng thuyết phục được gã chiến binh vàng là gã tới số rồi.

      Gã lui lại chỗ lan can.

      “Chưa xong đâu, Jackson,” Chrysaor gầm gừ. “Tao báo thù–”

      Lời gã bị cắt ngang bởi Frank, người lại vừa biến hình lần nữa. con gấu xám Bắc Mỹ tám trăm pound chắc chắn có thể khiến cuộc đối thoại tan tành. Cậu kéo Chrysaor lại và tát cái mặt nạ vàng rời khỏi mũ giáp. Chrysaor hét thảm, lập tức lấy tay che mặt nhào xuống nước.

      Họ chạy tới chỗ lan can. Chrysaor lặn mất tiêu. Percy nghĩ tới việc rượt đuổi gã nhưng cậu hiểu nước ở đây, cậu cũng muốn mình đối đầu gã thêm lần nữa.

      “Giỏi lắm!” Annabeth hôn cậu, khiến cậu thấy tốt hơn chút ít.

      “Tại tuyệt vọng quá đấy thôi,” Percy chữa lời. “Và ta cần xử lí cái thuyền ba tầng chèo này .”

      “Đốt?” Annabeth hỏi.

      Percy nhìn can Coca ăn kiêng trong tay. “Mình có ý hay hơn đó.”

      Mất nhiều thời gian hơn Percy muốn. Khi họ làm, cậu cứ liếc qua liếc lại mặt biển, đợi Chrysaor với lũ cá heo cướp biển của trở lại, nhưng chúng làm thế.

      Leo bình thường trở lại, nhờ có rượu tiên. Piper chăm sóc vết thương của Jason nhưng cậu bị thương nặng như vẻ ngoài. Chủ yếu là cậu xấu hổ vì lại bị chế ngự lần nữa, chắc có liên quan tới Percy lắm đây.

      Họ đặt lại các món đồ dự trữ vào nơi thích hợp và dọn dẹp lại tàn tích từ cuộc xâm lăng trong khi HLV Hedge tới thực địa tàu địch, phá tanh bành mọi thứ ông thấy bằng cây gậy bóng chày.

      Khi ông thầy làm xong, Percy thu hết vũ khí của địch tàu cướp biển lại. Kho của chúng chật ních châu báu nhưng Percy kiên quyết chạm vào góc.

      “Em có thể cảm thấy có số vàng trị giá khoảng sáu triệu đô la tàu,” Hazel . “Thêm cả kim cương, hồng ngọc–”

      “Sáu tr-triệu?” Frank lắp bắp, “Đô la Canada hay Mỹ?”

      “Kệ ,” Percy bảo. “Đó là phần cống phẩm.”

      “Cống phẩm?” Hazel hỏi.

      “Ồ,” Piper gật đầu. “Kansas”

      Jason cười toe. Cậu cũng ở đó khi họ gặp thần rượu. “Điên . Nhưng mình thích.”

      Cuối cùng Percy lên tàu cướp biển và mở van xả lũ. Cậu còn bảo Leo đục thêm vài lỗ nữa ở đáy thân tàu bằng mấy công cụ đắc lực của mình và Leo rất hạnh phúc được gia ơn.

      Thủy thủ đoàn Argo II lắp lại mấy chấn song lan can và cắt hết dây neo. Piper mang cái sừng sung túc mới cóng của mình ra, chĩa về phía Percy, muốn nó phun ra Coca ăn kiêng, thứ giải khát tuôn ra với sức mạnh của vòi cứu hỏa, ào lên boong tàu địch. Percy nghĩ có khi mất tới vài giờ nhưng con tàu chìm nhanh rệt, ngập tràn Coca ăn kiêng và nước biển.

      “Dionysus,” Percy kêu gọi, giơ cao mặt nạ vàng của Chrysaor. “Hay Bacchus-gì cũng được. Ngài khiến cho chiến thắng này khả thi dù có mặt ở đây chăng nữa. Kẻ thù ngài run sợ trước thanh danh của ngài…hoặc món Coca ăn kiêng của ngài hay gì gì đó. Vì vậy, vâng, tạ ơn ngài.”

      Những lời rất khó để thốt ra nhưng Percy xoay sở để mình ngậm miệng như hến. “Chúng tôi dâng chiếc tàu này tới người làm cống phẩm. Mong ngài thích.”

      “Sáu triệu vàng,” Leo lẩm bẩm. “Ông ấy nên thích nó hơn.”

      “Xììì,” Hazel gắt. “Kim loại quý phải đều tuyệt cả đâu. Tin em .”

      Percy ném chiếc mặt nạ vàng lên tàu, giờ nó còn chìm nhanh hơn, chất lỏng có ga màu nâu phun ra từ khe cắm chèo của thuyền ba tầng chèo và sủi bọt ra từ khoang hàng hóa, khiến mặt biển sủi bọt nâu.

      Percy triệu hồi sóng biển và tàu địch ngập lút. Leo đưa tàu Argo II xa khi con tàu cướp biển biến mất dưới làn nước.

      “Thế có ô nhiễm môi trường đó?” Piper hỏi.

      “Mình chả lo đâu,” Jason bảo . “Nếu Bacchus thích, con tàu biến mất thôi.”

      Piper biết việc đó có xảy ra hay , nhưng cậu thấy mình làm hết sức có thể. Cậu tin rằng Dionysus nghe họ hay quan tâm tới họ, hay thậm chí là giúp họ đánh lại hai gã khổng lồ sinh đôi còn ít khả năng hơn, nhưng cậu phải thử.

      Khi tàu Argo II hướng về phía đông vào màn sương mù, Percy quyết định rằng ít ra có điều tốt rút ra từ cuộc đấu kiếm của cậu với Chrysaor. Cậu thấy mình khiêm tốn – đủ khiếm tốn để hiến tế cho Gã thần rượu nho.

      Sau cuộc chiến với lũ cướp biển, họ quyết định bay hết quãng đường còn lại tới Rome. Jason khăng khăng mình đủ khỏe để thực nghĩa vụ canh gác cùng với HLV Hedge, vẫn đầy adrenaline [2] đến nỗi mỗi khi con tàu gặp sóng, ông thầy lại vung gậy lên mà hét, “Chết !”

      Họ còn vài giờ nữa trước hừng đông nên Jason khuyên Percy nên cố ngủ lấy ít tiếng nữa.

      “Ổn thôi mà, bạn,” Jason bảo. “Cho người khác cơ hội cứu con tàu lấy lần chớ, hử?”

      Percy đồng tình, dù vào khoang của mình là cậu lại khó ngủ.

      Cậu cứ chăm chăm nhìn chiếc đèn lồng bằng đồng lắc lư trần nhà và nghĩ tới việc Chrysaor dễ dàng đánh bại cậu ra sao trong cuộc đọ kiếm. Tên chiến binh vàng có thể giết cậu mà chẳng tốn giọt mồ hôi. chỉ giữ Percy sống sót vì người ta trả tiền lấy quyền giết cậu sau này mà thôi.

      Percy cảm thấy như có mũi tên lọt qua khe giáp mình – như thể cậu vẫn còn phước ban của Achilles và ai đó tìm ra điểm yếu của cậu. Càng lớn, cậu càng sống sót lâu hơn với thân phận á thần, càng nhiều bè bạn ngưỡng mộ cậu. Họ phụ thuộc vào cậu, trông cậy vào quyền năng của cậu. Kể cả người La Mã cũng dùng khiên tung hứng và bầu cậu làm Pháp Quan dù cậu mới biết họ có vài tuần.

      Nhưng Percy cảm thấy mình quyền năng. Càng làm nhiều việc hùng cậu càng cảm thấy mình hạn chế. Cậu thấy mình như kẻ lừa đảo. Mình tuyệt như các cậu nghĩ đâu, cậu muốn bảo bạn mình như thế. Thất bại của cậu, như đêm nay chẳng hạn, có vẻ chứng minh điều đó. Có lẽ đó là lý do cậu bắt đầu lo mình bị nghẹt thở. phải hoàn toàn là chìm ở trong đất liền hay ngoài biển khơi mà là cảm giác chìm trong quá nhiều kỳ vọng, nghĩa là đảm nhận quá nhiều trách nhiệm.

      Wow…khi cậu bắt đầu có mấy ý nghĩ kiểu thế, cậu biết mình dành quá nhiều thời gian bên Annabeth.

      Athena từng với Percy sai lầm chết người của cậu: cậu được cho là quá trung thành với bạn bè. Cậu thể có cái nhìn bao quát. Cậu cứu lấy bạn mình dù việc đó cõ nghĩa là hủy diệt cả thế giới.

      Lúc đó, Percy chỉ nhún vai gạt sang bên. Sao mà trung thành lại là xấu được? Hơn nữa, việc chống lại Titan diễn ra tốt đẹp. Cậu cứu được bạn mình và đánh bại Kronos.

      Dù thế, giờ cậu lại băn khoăn. Cậu rất sẵn lòng lao đầu vô bất cứ con quái vật, thần thánh hay tên khổng lồ nào để bảo vệ bạn bè khỏi bị thương tổn. Nhưng nếu phải là cậu làm nhiệm vụ sao? Nếu ai đó khác phải làm như thế nào? Điều đó khó thừa nhận. Cậu thậm chí còn lo lắng với việc đơn giản như để Jason nhận lượt gác của mình. Cậu muốn trông chờ ai bảo vệ bản thân mình cả, ai đó có thể phải chịu tổn thương để bảo hộ cậu.

      Mẹ Percy từng làm vậy. Bà sống rất khổ với gã người phàm phì nộn bởi nghĩ rằng như thế giúp Percy tránh lũ quái vật. Grover, bạn thân nhất của cậu bảo vệ cậu tới gần năm thậm chí trước cả khi Percy nhận ra mình là á thần, Grover còn suýt bị con Minotaur sát hại.

      Percy còn là trẻ nít nữa. cậu muốn bất cứ ai mình mến lại phải mạo hiểm vì mình. Cậu phải đủ mạnh mẽ để bảo vệ chính mình. Nhưng giờ cậu lại định để Annabeth đơn độc xuất phát, lần theo Dấu hiệu Athena dầu biết rằng có thể mất mạng. Nếu việc này dẫn tới chọn lựa – cứu Annabeth hay để nhiệm vụ thành công – Percy thực có thể chọn nhiệm vụ sao?

      Mệt mỏi cuối cùng đánh thắng cậu. Cậu thiếp , trong cơn ác mộng, tiếng sấm sét ầm ì biến thành tiếng cười của nữ thần đất Gaea.

      Percy mơ thấy mình đứng tại hiên trước Nhà Lớn ở Trại Con Lai. Khuôn mặt ngái ngủ của Gaea ở phía đồi Con Lai – nét mặt khổng lồ của bà ta hình thành từ bóng râm bãi cỏ dốc. Môi bà ta chẳng động nhưng giọn lại vang vọng khắp thung lũng.

      Ra đây là nhà mi ư, Gaea thầm . Nhìn nó lần cuối Percy Jackson. Lẽ ra ngươi nên quay trở về đây. Ít ra ngươi có thể chết cùng chiến hữu mình khi người La Mã xâm chiếm. Giờ máu ngươi đổ cách xa quê nhà chôn rau cắt rốn, những khối đá cổ xưa, và ta trỗi dậy.

      Mặt đất rung chuyển. đỉnh đồi Con Lai, cây thông Thalia bùng cháy. Chấn động lan khắp thung lũng – cỏ biến thành cát bụi, rừng hóa ra tro. Dòng sông với hồ khô cạn. Các cabin và Nhà Lớn tan tành mây khói. Khi cơn chấn động chấm dứt, Trại Con Lai trông như khu đất hoang sau vụ xả bom nguyên tử. Thứ duy nhất còn lại là mái hiên nơi Percy đứng.

      Bên cạnh cậu, tro bụi xoáy vòng và cố định lại thành khuôn mặt người đàn bà. Mắt bà ta nhắm nghiền như thể mộng du. Áo choàng bà ta là rừng xanh, lốm đốm trắng vàng như tia nắng mặt trời xuyên qua các cành cây. Tóc bà ta đen như đất canh tác. Mặt bà rất đẹp, nhưng dù mang nụ cười mơ mộng môi vẫn quá lạnh lùng xa cách. Piper cảm giác bà ta có thể thấy được các á thần chết và các thành phố cháy rụi mà nụ cười ấy chả chút lung lay.

      “Khi ta giành lại trái đất,” Gaea , “Ta để cho nơi này mãi mãi cằn cỗi, để nhắc bản thân về giống loài của ngươi và nỗi tuyệt vọng cùng cực của chúng khi cố ngăn ta. Ngươi ngã xuống khi nào quan trọng, con tốt bé bỏng của ta – vào tay Phorcys, Chrysaor hay hai đứa song sinh của ta cũng thế cả. Ngươi ngã xuống và ta ở đó ăn tươi nuốt sống nươi. Lựa chọn duy nhất của ngươi giờ…là đơn độc ngã xuống ư? Tự nguyện đến với ta; đưa đứa con theo nữa. Có lẽ ta tha cho nơi mà ngươi quý này. Nếu …”

      Gaea mở mắt. Chúng xoắn quyện xanh lục cùng đen thẳm, sâu như lớp vỏ trái đất. Gaea thấy mọi thứ. Tính kiên nhẫn của bà ta là vô hạn. Mất rất lâu mới đánh thức nổi bà ta, nhưng khi bà ta tái xuất, sức mạnh ấy gì ngăn nổi.

      Da Percy râm ran. Tay cậu tê cứng. Cậu nhìn xuống và thấy mình tan thành cát bụi, như mọi con quái vật cậu từng đánh bại.

      “Tận hưởng Tartarus , con tốt bé ạ,” Gaea thầm .

      Tiếng kim loại kêu KENG-KENG-KENG kéo Percy tỉnh mộng. Đôi mắt cậu bật mở. Cậu nhận thấy tiếng bộ phận đáp được hạ xuống.

      Có tiếng gõ cửa phòng cậu và Jason ló đầu vô. Vết bầm tím mặt cậu mờ . Đôi mắt xanh lấp lánh đầy phấn khích.

      “Này ông bạn,” cậu hô. “Chúng ta hạ cánh xuống Rome. Cậu thực nên coi cái này.”

      Bầu trời xanh rực rỡ như thể giông bão chưa từng xảy ra vậy. Mặt trời mọc những ngọn đồi xa xa khiến mọi thứ phía dưới họ tỏa sáng lấp lánh như thể cả thành phố mới ra khỏi tiệm rửa xe.

      Percy từng thấy các thành phố lớn trước đây. sao cậu cũng đến từ New York. nhưng bao la tuyệt đối của Rome như chộp lấy cổ họng cậu và khiến cậu khó thở. Cả thành phố có vẻ như chả liên quan gì tới giới hạn địa lý. Nó trải dài qua các con đồi, thung lũng, nhảy qua sông Tiber bằng cả tá các cây cầu và cứ lan mãi đến tận chân trời. Đường phố rồi ngõ hẻm cứ dích dắc theo trật tự gì xuyên qua các vùng dân cư. Các tòa nhà kính công sở ngay bên địa điểm khai quật. nhà thờ ngay bên hàng cột La Mã, hàng cột La Mã lại sát cạnh sân vận động bóng đá đại. Ở vài khu phố, biệt thự xây vữa cổ mái lợp ngói đỏ chen chúc bên con đường lát đá cuội, thành ra nếu Percy chỉ tập trung vào mấy khu ấy, cậu có thể tưởng tượng mình quay về thời cổ đại. Nhìn đâu cậu cũng thấy những quảng trường rộng lớn và đường phố tắc nghẹt xe cộ. Công viên cắt ngang thành phố với bộ sưu tập điên khùng nào cọ, thông, bách xù[3] rồi cả oliu nữa, như thể Rome quyết định được mình thuộc phần nào của thế giới – hoặc có khi lại tin rằng cả thế giới vẫn thuộc về mình chăng.

      Cứ như thể thành phố này biết giấc mơ của Percy về Gaea. Nó biết rằng nữ thần đất định cướp phá các nền văn mình nhân loại và thành phố này, tồn tại hàng ngàn năm nay đáp lại bà ta: Muốn san phẳng thành phố này ư, Mặt Bụi? Cứ thử coi.

      cách khác, đó là HLV Hedge ở dạng thành phố phàm tục – chỉ là cao hơn thôi.

      “Chúng ta đỗ xuống công viên đó,” Leo thông báo, chỉ xuống khu đất xanh rì rộng lớn điểm vài cây cọ. “Hãy hy vọng là Màn Sương Mù khiến chúng ta trông giống con chim bồ câu tổ chảng hay gì gì đó đại loại thế.”

      Percy ước gì chị của Jason là Thalia ở đây. luôn có cách uốn Màn Sương Mù để khiến người ta nhìn thấy cái muốn họ thấy. Percy chưa bao giờ giỏi khoản đó hết. Cậu lúc nào cũng nghĩ: Đừng nhìn tôi, và hy vọng người La Mã ở phía dưới nhận ra cái thuyền đồng ba tầng chèo khổng lồ hạ cánh xuống thành phố của mình ngay giữa giờ cao điểm ban sáng.

      Có vẻ có tác dụng. Percy hề thấy chiếc ô tô nào chệch khỏi lòng đường hay người La Mã nào chỉ lên trời hét toáng, “Người ngoài hành tinh!” Tàu Argo II hạ cánh đồng cỏ và thu chèo lại.

      Tiếng ồn xe cộ bao quanh họ nhưng công viên lại thanh bình và vắng vẻ. Bên trái họ, bãi cỏ xanh dốc thoải về phía hàng cây. biệt thự cổ nép mình trong bóng mấy cây thông kỳ quặc thân mỏng cong queo tầm ba mươi, bốn mươi bộ rồi đâm chồi nảy lá thành từng tán rậm rạm. chúng nhắc Percy nhớ đến những cái cây trong sách của Dr. Seuss mà mẹ thường đọc cho mình nghe lúc bé.

      Bên phải họ, ngoằn ngoèo dọc theo đỉnh đồi là bức tường gạch đỏ rất dài với các rãnh khía cùng cho cung thủ – có thể là tuyến phòng thủ thời trung cổ, có khi là La Mã Cổ. Percy chắc lắm.

      Phía bắc, cách tầm dặm qua các khúc quanh của thành phố, chóp của Đại Hí Trường vươn cao mọi mái nhà, trông hệt như trong các bức hình du lịch. Đấy là khi chân Percy bắt đầu run run. Cậu thực ở đây. Cậu nghĩ chuyến của mình tới Alaska khá ngoại lai rồi, nhưng giờ cậu ở trung tâm của Đế Chế La Mã cổ xưa, lãnh địa của địch đối với á thần Hy Lạp. Theo cách nào đó, nơi này định hình cuộc sống của cậu giống như New York vậy.

      Jason chỉ vào chân bức tường cung thủ, nơi bậc thang dẫn xuống kiểu đường hầm nào đấy.

      “Mình nghĩ mình biết cả bọn ở chỗ nào,” cậu . “Là Hầm Mộ Scipios[4].”

      Percy cau mày. “Scipio…con pegasus của Reyna?”

      ,” Annabeth thêm vô. “Họ là gia đình quý tộc La Mã và … wow, nơi này tuyệt .”

      Jason gật đầu. “Mình từng nghiên cứu bản đồ Rome trước đây. Mình luôn muốn tới đây nhưng…”

      Chẳng ai buồn hoàn thành câu đó. Nhìn mặt bạn mình, Percy có thể được họ cũng kinh ngạc như cậu vậy. Họ làm được. Họ hạ cánh xuống Rome – Thành Rome.

      “Kế hoạch?” Hazel hỏi. “Nico còn được tới hoàng hôn – là nhiều nhất. Và cả thành phố này có khi bị hủy diệt ngay hôm nay.”

      Percy tự thức tỉnh khỏi cơn bàng hoàng. “Em phải. Annabeth…cậu xác định được điểm cần tới bản đồ bằng đồng của mình chưa?”

      Đôi mắt xám của chuyển thành màu tối đậm hơn cả giông bão, Percy có thể giải thích đủ hiểu là: Nhớ coi mình gì, bạn. Cứ tự mà mơ lấy .

      “Có,” thận trọng bảo. “Ở sông Tiber. Mình nghĩ mình tìm thấy được nhưng mình nên–”

      “Đưa mình cùng,” Percy kết câu. “Phải, cậu đúng.”

      Annabeth trừng mắt sắc như dao nhìn cậu. “Như thế –”

      “An toàn,” cậu thêm vào. “ á thần loanh quanh ở Rome mình. Mình với cậu đến sông Tiber. Ta có thể dùng lá thư giới thiệu đó, mong rằng gặp được thần sông Tiberinus. Có khi mình lại giúp hay đưa ra được vài lời khuyên sao. Rồi từ chỗ đó cậu có thể lấy mình.”

      Họ đọ mắt trong yên lặng, nhưng Percy lùi bước. Khi cậu với Annabeth bắt đầu hẹn hò, mẹ cậu nhồi điều này vào đầu cậu: Phải tiễn bạn hẹn tới tận cửa mới là cử chỉ lịch thiệp. Nếu điều đấy là đúng, cùng bắt đầu nhiệm vụ độc hành chết chóc hoàng tráng của mình hẳn phải là cử chỉ lịch thiệp.

      “Thôi được,” Annabeth lầm bầm. “Hazel, giờ ta ở Rome rồi, em có nghĩ rằng mình xác định được vị trí Nico ?”

      Hazel chớp mắt như thể bị thôi miên khi coi Chương trình Percy/Annabeth. “Ừm…mong là được, nếu em đến đủ gần. Em phải quanh thành phố. Frank, với em nhé?”

      Frank cười rạng rỡ. “Chắc chắn rồi.”

      “Và,…Leo,” Hazel thêm vô. “ cùng nữa càng hay. Các ngư mã bảo bọn em cần giúp vấn đề máy móc gì ấy.”

      “Ờ,” Leo bảo, “ thành vấn đề.”

      Nụ cười của Frank biến thành thứ trông còn giống mặt nạ của Chrysaor hơn.

      Percy phải thiên tài trong mấy mối quan hệ nhưng ngay cả cậu cũng cảm thấy căng thẳng giữa ba người này. Từ khi đến Đại Tây Dương, họ còn hành xử giống trước nữa. chỉ là hai người tranh giành Hazel. Nó như kiểu ba người họ bị khóa chặt vô nhau, hành động như gây án giết người bí , nhưng họ vẫn chưa phát ra ai trong số ấy là nạn nhân cả.

      Piper rút dao ra và đặt lên lan can. “Giờ mình với Jason trông chừng con tàu. Mình xem thanh Katoptris có thể cho mình thấy cái gì. Nhưng Hazel, nếu bọn em xác định được chỗ Nico, đừng tới đó mình. Quay lại đón tụi này cùng. Phải cần tới tất cả chúng ta mới đánh lại lũ khổng lồ.”

      ra điều hiển nhiên: dù cho tất cả họ cùng nhau cũng chả đủ, trừ phi họ có vị thần về phe mình. Percy quyết định nêu vấn đề đó ra.

      “Ý hay đấy,” Percy . “Còn hẹn gặp lại ở đây lúc…nào?”

      “Ba giờ chiều?” Jason gợi ý. “Đó là giờ sát nhất ta có thể hẹn mà vẫn có hy vọng đánh lại lũ khổng lồ và cứu Nico, cố gửi thông điệp Iris nhé.”

      Những người khác gật đầu tán thưởng nhưng Percy nhận thấy vài người trong số họ liếc nhìn Annabeth. điều nữa ai muốn : Annabeth thời gian biểu khác. có thể quay về vào lúc ba giờ, có khi muộn hơn nhiều hay là chẳng bao giờ nữa. Những mình, tìm bức Athena Parthenos.

      HLV Hedge lầm bầm. “Thế là ta có thời giờ ăn dừa rồi – ý ta là bứng dừa ra khỏi thân tàu. Percy, Annabeth…ta thích cậu cùng riêng với nhau đâu. Nhớ lấy: phải phép. Nếu ta còn nghe được mấy trò chộn rộn ta cấm túc hai trò tới ngày sông Styx đóng băng bằng hết thôi.”

      Ý nghĩ bị cấm túc khi họ sắp mạo hiểm mạng sống là ngớ ngẩn, Percy thể nín cười.

      “Bọn em trở về sớm thôi,” cậu hứa. Cậu nhìn quanh bạn bè mình, cố cảm thấy như đây là lần cuối họ được bên nhau. “Chúc may mắn, mọi người.”

      Leo hạ ván cầu, Percy với Annabeth khởi hành đầu tiên




      [1]Diet Coke là loại đồ uống cho người ăn kiêng của hãng Coca Cola ra đời năm 1985. Tuy nhiên, việc sản phẩm này ra đời lại là sai lầm nghiêm trọng trong việc phát triển của hãng. Khi Diet Coke xuất , hãng Coca Cola họp báo và thông báo rằng: từ giờ trở còn sản phẩm Coke truyền thống nữa. Thay vào đó là sản phẩm Coke ngọt hơn và nhàng hơn. Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ kể từ khi họp báo vào ngày 23 tháng 4 năm 1985, 81% dân số nước Mỹ biết thông tin còn sản phẩm Coke truyền thống nữa. Tuần tiếp theo, 40.000 lá thư bay tới trụ sở của Coca Cola, mỗi ngày có tới 1.000 cú điện thoại phàn nàn về chất lượng sản phẩm mới. Giá cổ phiếu của Coca Cola tụt giảm thảm hại, tới 13,6% – con số tồi tệ nhất trong lịch sử phát triển của hãng. 87 ngày sau khi Diet Coke xuất , công thức cổ điển của Pemberton – Cha đẻ của Coca Cola trở lại giá bán tại các cửa hàng, siêu thị trong dạng chai cổ điển. Và nó vẫn còn tồn tại đến ngày nay

      [2] adrenaline là hóc-môn tuyến thượng thận, được tiết ra khi sợ hãi hay hưng phấn, có tác dụng làm tăng nhịp tim, nhịp thở, tăng huyết áp, giãn khí quản.

      [3] Bách xù







      [4] Hầm Mộ Scipios , hầm mộ của dòng họ cùng tên ở La Mã














      The Mark of Athena _ Chương 32


      Percy


      XÉT THEO NHIỀU MẶT KHÁC NHAU, việc lang thang quanh Rome với Annabeth có thể khá tuyệt vời. Họ nắm tay khi tìm đường qua những con phố quanh co, tránh ô tô và đám lái xe vespa điên cuồng, len lỏi qua từng đoàn khách du lịch và lội qua từng biển bồ câu. Ngày nóng lên nhanh chóng. Khi họ xa khỏi đám khói xăng đường chính, khí có mùi bánh mì nướng và hoa mới cắt.

      Họ về phía Đại Hí Trường[1] vì đó là cột mốc dễ tìm nhất, nhưng đến được đấy hóa ra lại khó hơn Percy dự đoán. Nhìn từ cao, thành phố này lớn và lộn xộn rồi, nhưng ở mặt đất nó còn rối rắm và mênh mông hơn. Có vài lần, họ lạc vào các ngõ cụt. Họ vô tình tìm thấy mấy đài phun nước tuyệt đẹp và những bức tượng khổng lồ.

      Annabeth bình phẩm về kiến trúc, nhưng Percy lại để mắt chú ý đến những thứ khác. Có lần cậu phát thấy bóng ma màu tím phát sáng— Thần giữ nhà La Mã[2]—lườm họ từ cửa sổ tòa chung cư. lần khác, cậu thấy người phụ nữ mặc áo chùng trắng—có lẽ là thần nữ[3] hay nữ thần—lăm lăm con dao trông rất gớm ghiếc, lẩn khuất giữa đám cột đổ nát trong công viên. có thứ gì tấn công họ, nhưng Percy có càm giác như họ bị theo dõi, và những kẻ theo dõi họ chẳng thân thiện gì.

      Cuối cùng họ cũng đến được khu hí trường, nơi hàng tá những gã mặc trang phục đấu sĩ ẩu đả với đám cảnh sát—kiếm nhựa đấu với dùi cui. Percy vụ đó là sao, nhưng cậu với Annabeth quyết định tiếp. Có đôi khi người thường còn quái hơn cả đám quái vật. Họ về phía tây, cứ chốc lại dừng lại hỏi đường tới con sông. Percy nghĩ tới vụ đó—duh— ở Ý người ta tiếng Ý, mà cậu . Dù vậy, chuyện đó hóa ra lại phải là vấn đề gì to tát. Vài lần hiếm hoi có người phố về phía hai người và hỏi câu gì đó, Percy chỉ nhìn họ đầy hoang mang và họ đổi sang tiếng .

      Khám phá tiếp theo: người Ý dùng đồng Euro và Percy chả có đồng nào lọai đó. Cậu thấy tiếc hùi hụi vì việc này ngay khi cậu thấy cửa hàng cho khách du lịch bán sô-đa. Lúc đấy sắp trưa rồi, trời cực kì nóng và Percy bắt đầu ước cậu có cái tàu chiến đầy Coca ăn kiêng.

      Annabeth xử lí vấn đề đó. lục lọi cái ba lô, lôi cái máy tính xách tay của Daedalus ra, và nhập vào vài lệnh. cái thẻ bằng nhựa chui ra từ cái khe bên cạnh.

      Annabeth vung vẩy nó đầy thắng lợi. “Thẻ tín dụng quốc tế. Cho trường hợp khẩn cấp.”

      Percy nhìn kinh ngạc. “Cậu làm thế nào mà–? Mà thôi. Mình muốn biết. Cứ tiếp tục tuyệt vời như vậy .”

      Mấy lon sô-đa có ích, nhưng đến lúc tới được dòng sông Tiber, họ vẫn thấy nóng và mệt. Bờ sông được bao bởi đường kè bằng đá. đám lộn xộn những kho hàng, căn hộ, cửa hàng và quán cà phê mọc chen chúc nhìn ra mặt sông.

      Con sông Tiber rộng lớn, uể oải và có màu caramen. vài cây bách cao lớn rủ bóng xuống hai bên bờ sông. Cây cầu gần đấy nhất trông khá mới, nhưng ngay cạnh nó là vòng cung đá đổ nát bị đứt đoạn ngay nửa đường nối hai bờ sông—đống phế tích đó hẳn phải được lưu lại từ thời Caesar.

      “Nó đây.” Annabeth chỉ cây cầu đá cũ nát. “Mình nhận ra nó trong bản đồ. Nhưng bọn mình làm gì bây giờ?”

      Percy mừng là bọn mình. Cậu vẫn chưa muốn phải tách ra với . Thực ra, cậu chắc cậu có thể bắt mình làm vậy khi thời điểm đến. Những câu chữ của Gaea lại vọng lại trong đầu cậu: Ngươi đơn độc ngã xuống ư?

      Cậu đăm chiêu nhìn dòng sông, tự hỏi làm cách nào họ mới bắt liên lạc được với Tiberinus. Cậu thực muốn nhảy xuống sông lắm. Trông con sông Tiber này sạch hơn bao nhiêu so với Sông Đông ở quê nhà, nơi cậu từng có quá nhiều lần chạm trán với đám tinh linh cáu kỉnh.

      Cậu làm dấu ra hiệu về phía quán cà phê gần đấy có bàn nhìn ra mặt sông. “Đến giờ ăn trưa rồi. Bọn mình thử cái thẻ tín dụng của cậu lần nữa sao nhỉ?”

      là giữa trưa, chỗ này vẫn vắng teo. Họ chọn bàn ngoài trời bên bờ sông, và người bồi bàn vội vàng tới. Trông ta hơi ngạc nhiên khi nhìn thấy hai người—đặc biệt là khi họ muốn ăn trưa.

      “Người Mỹ hả?” ta hỏi, với nụ cười đau khổ.

      “Vâng.” Annabeth đáp.

      “Và tôi muốn cái pizza,” Percy .

      chàng phục vụ trông như cố nuốt đồng xu euro. “Tất nhiên là vậy rồi,signor. Và để tôi đoán nhé: cốc Coca-Cola? Có đá?”

      “Tuyệt,” Percy . Cậu hiểu tại sao chàng lại chìa bộ mặt chua chát ra với cậu như thế. Có phải cậu vừa gọi cốc Coke xanh đâu chứ.

      Annabeth gọi cái bánh mì kẹp và nước có ga. Sau khi người bồi bàn rời , cười với Percy. “Mình nghĩ người Ý ăn muộn hơn nhiều. Họ bỏ đá vào đồ uống. Và họ chỉ làm pizza cho khách du lịch.”

      “Ồ.” Percy nhún vai. “Món ngon nhất trong những món Ý, và họ thậm chí thèm ăn nó?”

      “Mình vậy trước mặt người bồi bàn đâu.”

      Họ nắm tay nhau ngang qua bàn. Chỉ nhìn Annabeth trong ánh mặt trời, Percy thấy mãn nguyện. Ánh nắng luôn khiến trông ấm áp và rực rỡ. Mắt nhuộm màu của bầu trời và màu đá cuội lát đường, lần lượt thay đổi giữa hai màu nâu và xanh da trời.

      Cậu tự hỏi liệu cậu có nên kể cho Annabeth nghe giấc mơ về Gaea phá hủy Trại Con Lai hay . Cậu quyết định làm vậy. cần thêm bất cứ điều gì để mà lo lắng nữa— phải với những gì phải đối mặt.

      Nhưng nó khiến cậu tự hỏi…chuyện gì xảy ra nếu họ dọa cho đám hải tặc của Chrysaor chạy mất? Percy và Annabeth có thể bị xích lại và đưa đến chỗ đám tay sai của Gaea. Máu của hai người đổ những khối đá cổ xưa. Percy đoán thế có nghĩa là Annabeth và cậu bị áp giải đến Hy Lạp làm vật hiến tế trong lễ hiến tế lớn kinh khủng nào đó. Nhưng Annabeth và cậu từng cùng trải qua kha khá tình huống tồi tệ rồi. Có lẽ họ nghĩ được ra kế hoạch tẩu thoát, lập chiến công…và Annabeth phải đương đầu với thử thách đơn độc ở Rome này.

      Ngươi ngã xuống khi nào quan trọng, Gaea vậy.

      Percy biết đấy là điều ước tồi tệ, nhưng cậu gần như tiếc nuối là họ bị bắt biển. Ít nhất Annabeth và cậu có thể ở bên nhau.

      “Cậu nên thấy xấu hổ,” Annabeth . “Cậu nghĩ đến Chrysaor, phải ? Đao kiếm thể giải quyết mọi vấn đề. Cuối cùng cậu cũng cứu được bọn mình đấy thôi.”

      Bất chấp bản thân, Percy mỉm cười. “Cậu làm thế nào thế? Lúc nào cậu cũng biết mình nghĩ gì.”

      “Mình hiểu cậu mà,” .

      Thế mà cậu vẫn thích mình á? Percy muốn hỏi vậy, nhưng cậu kìm lại.

      “Percy,” , “cậu thể gánh hết gánh nặng của cả nhiệm vụ được. Chuyện đó là thể. Thế cho nên bọn mình mới có tận bảy người. Và cậu phải để mình tự tìm bức tượng Athena Parthenos mình.”

      “Mình rất nhớ cậu,” cậu thú nhận. “Suốt nhiều tháng ròng. mảnh lớn của đời bọn mình bị lấy mất. Nếu mình lại mất cậu lần nữa–”

      Bữa trưa được mang đến. Người bồi bàn trông bình tĩnh hơn nhiều. chấp nhận thực tế rằng họ là những người Mỹ vô vọng, có vẻ như ta quyết định tha thứ cho họ và đối đãi lịch với họ.

      “Cảnh đẹp lắm đấy,” ta , hất đầu về phía dòng sông. “Mời hai người cứ tận hưởng.”

      Khi ta rời , họ ăn trong im lặng. Cái bánh pizza là miếng hình vuông nhão nhão nhạt hoét chẳng có nhiều phô mai lắm. Có lẽ, Percy nghĩ, đấy chính là lí do vì sao người La Mã ăn thứ này. Người La Mã tội nghiệp.

      “Cậu phải tin mình,” Annabeth . Percy suýt nữa nghĩ rằng với miếng bánh sandwich, vì nhìn vào mắt cậu. “Cậu phải tin rằng mình quay về.”

      Cậu nuốt thêm miếng bánh nữa. “Mình tin cậu. Đấy phải là vấn đề. Nhưng quay về từ đâu chứ?”

      Tiếng chiếc Vespa cắt ngang hai người. Percy nhìn dọc bờ sông và tin được vào mắt mình. Chiếc xe máy là mẫu xe cổ: to và có màu xanh da trời nhạt. Người lái xe là gã bận bộ vest xám bóng bẩy. Ngồi đằng sau ta là choàng khăn trùm đầu, hai tay ta vòng quanh eo người đàn ông. Họ lách qua mấy cái bàn cà phê, tà tà đến rồi đỗ lại bên cạnh Percy và Annabeth.

      “Ồ, xin chào,” người đàn ông . Giọng ta trầm, gần như khàn khàn, như giọng diễn viên điện ảnh. Tóc ta ngắn và được vuốt keo ngược ra đằng sau khuôn mặt góc cạnh của ta. ta đẹp trai theo kiểu bố--tv của những năm 50. Ngay cả quần áo của ta cũng có vẻ cổ điển. Khi ta xuống xe, cạp chiếc quần của ta cao hơn bình thường rất nhiều, nhưng bằng cách nào đó, trông ta vẫn nam tính và phong cách chứ hề giống tên đần. Percy tài nào đoán nổi tuổi ta—có lẽ khoảng ba mươi mấy, dù cách ăn mặc và hành xử của ta có vẻ hơi giống ông nội.

      bước xuống xe. “Bọn ta có buổi sáng đáng nhất trần đời,” ta hụt hơi .

      Trông khoảng hai mươi mốt tuổi, cũng ăn mặc theo phong cách cổ điển. Chiếc váy in hoa cúc vạn thọ dài tới mắt cá chân và chiếc áo cánh trắng của ta được bó vào với nhau bằng chiếc thắt lưng da lớn, khiến ta có vòng eo nhất mà Percy từng thấy. Khi ta tháo cái khăn trùm đầu ra, mái tóc đen ngắn bồng bềnh của ta cuộn thành hình dáng hoàn hảo. ta có đôi mắt sẫm màu tinh nghịch và nụ cười chói lọi. Percy từng gặp những thần nữ còn ít giống tinh hơn này.

      Miếng sandwich của Annabeth rớt khỏi tay . “Ôi, thánh thần ơi. Làm—làm thế nào…?”

      Trông có vẻ sững sờ đến mức Percy thấy cậu nên biết hai người này mới phải.

      “Trông hai người đúng là quen đấy,” cậu quyết định. Cậu nghĩ cậu nhìn thấy họ ti vi. Trông có vẻ như họ diễn trong chương trình cũ ngày trước, nhưng chuyện đó thể nào đúng được. Họ hề già tẹo nào. Dù vậy, cậu chỉ vào người đàn ông và đoán thử. “ có phải cái gã trong phim Những Kẻ Điên[4] đó ?”

      “Percy!” Annabeth trông có vẻ kinh hãi.

      “Gì nào?” cậu vặc. “Mình có xem ti-vi mấy đâu.”

      “Đấy là Gregory Peck đấy!” Mắt Annabeth mở lớn, và miệng há hốc suốt. “Và…ôithánh thần ơi! Audrey Hepburn! Mình biết bộ phim này. Kỳ nghỉ ở Rome[5]. Nhưng bộ phim đấy có từ những năm 1950. Làm thế nào—?”

      “Ồ, cưng à!” xoay vòng như tinh linh của trung và ngồi xuống bàn của họ. “Ta e rằng em nhầm ta với người khác rồi! Tên ta là Rhea Silvia[6]. Ta là mẹ của Remus và Romulus, từ hàng ngàn năm trước kia. Nhưng em tốt bụng khi nghĩ rằng trông ta trẻ như thập niên 50. Còn đây là chồng ta…”

      “Tiberinus,” Gregory Peck , chìa tay ra với Percy cách đầy nam tính. “Thần Sông Tiber.”

      Percy bắt tay ta. Người đàn ông có mùi nước hoa cạo râu. Dĩ nhiên, nếu Percy mà là con sông Tiber, cậu cũng muốn át cái mùi bằng nước hoa -lô-nhơ.

      “Ơ, chào,” Percy . “Lúc nào trông hai người cũng giống diễn viên điện ảnh Mỹ thế à?”

      “Vậy sao?” Tiberinus nhíu mày và nghiên cứu quần áo của mình. “Thực ra , ta cũng nữa. Con đường du nhập của văn hóa phương Tây có hai chiều, cậu biết đấy. Rome tác động đến thế giới, nhưng thế giới cũng ảnh hưởng tới Rome. Đúng là dạo này văn hóa Mĩ có vẻ ảnh hưởng khá nhiều. Ta cũng hơi bị loạn trong vài thế kỉ qua.”

      “Được rồi,” Percy . “Nhưng…hai người đến đây để giúp ạ?”

      “Các thần nước[7] của ta với ta hai người ở đây.” Tiberinus đưa mắt nhìn sang Annabeth. “ có bản đồ rồi chứ, thân mến? Cả thư giới thiệu nữa?”

      “Ờ…” Annabeth đưa cho ta lá thư và chiếc đĩa đồng. nhìn chằm chằm vị thần sông chăm chú đến nỗi Percy bắt đầu cảm thấy ghen.

      “Th-thế…” lắp bắp, “ngài từng giúp những người con khác của Athena trong thử thách này ạ?”

      “Ôi, cưng ơi!” xinh đẹp, Rhea Silvia, đặt tay lên vai Annabeth. “Tiberinus lúc nào cũng giúp ích ấy chứ. ấy cứu hai đứa con trai Romulus và Remus của ta, và mang hai đứa đến chỗ nữ thần sói Lupa. Sau đấy, khi lão vua Numen đó cố giết ta, Tiberinus thương cảm cho ta và lấy ta làm vợ. Kể từ đấy ta cùng ấy cai trị vương quốc dưới sông. ấy chỉ mơ màng suốt thôi!”

      “Cám ơn em, em ,” Tiberinus với nụ cười nhăn nhở, “Và, phải, Annabeth Chase ạ, ta từng giúp đỡ nhiều chị em khác của …ít nhất là giúp họ bắt đầu hành trình của họ được an toàn. tiếc là sau đó họ lại phải chết đau đớn. Rồi, giấy tờ của có vẻ hợp lệ. Chúng ta nên thôi. Dấu Hiệu Athena chờ ở phía trước!”

      Percy nắm chặt tay Annabeth—có lẽ hơi chặt quá. “Tiberinus, để cho tôi với ấy được . Chỉ đoạn nữa thôi.”

      Rhea Silvia cười ngọt ngào. “Nhưng được đâu, cậu bé ngốc ạ. Em phải quay lại thuyền của các em và tập hợp các bạn khác của em lại. Đương đầu với bọn khổng lồ ấy! Đường ra con dao của bạn Piper của em. Annabeth có con đường khác. bé phải mình.”

      “Đúng vậy,” Tiberinus . “Annabeth phải mình đối mặt với người canh gác điện thờ. Đó là cách duy nhất. Và Percy Jackson, cậu có ít thời gian hơn cậu thấy để giải cứu người bạn bị nhốt trong cái hạp của cậu. Cậu phải nhanh chân lên.”

      Chỗ pizza Percy ăn có cảm giác như xi-măng cục trong dạ dày cậu. “Nhưng–”

      sao đâu, Percy.” Annabeth siết chặt tay cậu. “Mình cần phải làm chuyện này.”

      Cậu mở miệng định lên tiếng. Vẻ mặt của ngăn cậu lại. khiếp sợ, nhưng vẫn cố gắng hết sức để che giấu nỗi sợ đó—vì cậu. Nếu cậu còn cố tranh cãi nữa, cậu chỉ khiến mọi chuyện khó khăn hơn với . Hay tệ hơn, cậu có thể thuyết phục được ở lại. Rồi phải sống với cái ý thức rằng lùi bước trước thử thách lớn nhất đời mình…giả như họ có sống sót, khi mà Rome sắp bị san bằng và Gaea sắp sửa trỗi dậy rồi phá hủy cả thế giới. Bức tượng Athena chứa đựng chiếc chìa khóa để đánh bại đám khổng lồ. Percy biết tại sao hay làm thế nào, nhưng Annabeth là người duy nhất có thể tìm được nó.

      “Cậu đúng,” cậu . “Giữ mình an toàn nhé.”

      Rhea cười khúc khích như thể đấy là ý kiến lố bịch. “An toàn á? có đâu! Nhưng cũng cần thiết. nào, Annabeth, cưng. Bọn ta chỉ cho em chỗ con đường của em bắt đầu. Sau đó, em chỉ còn có mình thôi.”

      Annabeth hôn Percy. ngập ngừng, như tự hỏi còn gì để nữa . Rồi khoác ba lô lên vai và leo lên yên sau chiếc xe máy.

      Percy ghét chuyện này. Cậu thà đấu với bất kì con quái vật nào đời còn hơn. Cậu thà đấu với Chrysaor lần nữa. Nhưng cậu buộc mình ngồi yên ghế và nhìn Annabeth ngồi xe máy khuất những con phố của Rome, cùng với Gregory Peck và Audrey Hepburn.




      [1] Coloseum: Đấu trường La Mã (hay Đại hý trường La Mã) được biết đến đầu tiên dưới cái tên Amphitheatrum Flavium theo tiếng Latinh hoặc Anfiteatro Flavio tiếng Ý, sau này gọi là Colosseum hay Colosseo, là đấu trường lớn ở thành phố Rome. Công suất chứa lúc mới xây xong là 50.000 khán giả. Đấu trường được sử dụng cho các võ sĩ giác đấu thi đấu và trình diễn trước công chúng. Đấu trường được xây dựng khoảng năm 70 và 72 sau Công Nguyên dưới thời hoàng đế Vespasian. Đây là công trình lớn nhất được xây ở Đế chế La Mã được hoàn thành năm 80 sau Công Nguyên dưới thời Titus, với nhiều chỉnh sửa dưới thời hoàng đế Domitian.







      [2] Lar: là thần bảo hộ trong tôn giáo La Mã. Họ có thể là vị tổ tiên hùng hoặc vị thần coi sóc mùa màng trong vùng lãmh thổ nào đó. Người ta tin rằng các thần Lar trông coi và điều khiển mọi việc xảy ra trong vùng lãnh thổ mà họ cai quản. Những bức tượng thần Lar thường được đặt bàn trong các bữa ăn. diện của họ là thể thiếu trong các kiện lớn của gia đình La Mã.

      [3] nymph: các nữ thần gắn với địa danh hay vùng đất cụ thể nào đó, thường có hình tượng là những xinh đẹp mang lại sức sống cho cỏ cây hay thiên nhiên của vùng đất; khác với nữ thần-godess.

      [4] Mad Men: chương trình phim truyền hình dài tập, công chiếu lần đầu vào tháng 7 năm 2007, kênh AMC của Mỹ, được sản xuất bởi hãng Lionsgate Television. Phim lấy bối cảnh những năm 1960, trong công ty quảng cáo tên là Stirling Cooper, sau là tập đoàn Stirling Cooper Draper Pryce, Đại lộ Madison. Trong phim “những kẻ điên” là cái tên xuất vào thập niên 50, do chính những người làm quảng cáo Đại Lộ Madison tự đặt cho mình. Bộ phim về công việc và cuộc sống của Don Draper, giám đốc sáng tạo của Stirling Cooper và người bạn đồng sáng lập tập đoàn Stirling Cooper Draper Pryce của ta.

      [5] Roman Holiday là bộ phim hài lãng mạn năm 1953, được đạo diễn và sản xuất bởi William Wyler, biên kịch John Dighton và Dalton Trumbo. Bộ phim này giới thiệu hình ảnh của huyền thoại điện ảnh gốc Bỉ Audrey Hepburn (đến với khán giả Mỹ, và bà giành được Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai diễn công chúa Ann trong phim này. Hai vai nam chính trong phim do Gregory Peck và Eddie Albert thủ vai.





      [6] Rhea Silvia (cũng được viết là Rea Silvia), cũng được gọi là Ilia, là người mẹ huyền thoại của hai em sinh đôi Romulus và Remus, những người sáng lập ra thành phố Roma.

      Theo truyền thuyết về thành Roma, vị vua Numitor bị người em trai của mình đoạt ngôi và con của ông là Rhea Silvia bị buộc trở thành trinh nữ để thể sinh con. Nhưng Rhea Silvia lại mang thai với con của thần Mars. Khi hai đứa bé bị phát , công chúa bị giam vào tù và kết án tử hình, còn lũ trẻ bị bỏ trong giỏ trôi dòng sông Tiber. May mắn là 2 em cập bờ sống sót và được con sói cái (là nữ thần sói Lupa) cho bú cho đến khi chúng được người chăn cừu cưu mang. Khi biết được câu chuyện quá khứ của mình, 2 em giết kẻ chiếm ngôi Amulus, khôi phục lại ngôi vị cho Numitor và trở lại nơi được con sói nuôi dưỡng để xây dựng thành phố. Hình ảnh 2 đứa trẻ trần truồng ngửa mặt bú sữa từ con sói cái trở thành chủ đề xuyên suốt trong nghệ thuật La Mã, và các bức điêu khắc minh họa truyền thuyết này đều xuất tại các bảo tàng trong khu vực.







      [7] Nữ thần nước hay Naiads là trong các thần nữ trong thần thoại Hy Lạp (tiếng Hy Lạp: Ναϊάδες là từ ghép giữa từ νάειν có nghĩa “dòng chảy”, và νᾶμα có nghĩa là “nước”) đây là vị thần thường ngự đài phun nước, giếng, khe và suối. Họ khác với các thần sông thường sống ở vùng nước tĩnh lặng của hồ đầm lầy, ao và đầm phá. Bản thể của Naiad giống hình thù của con nhộng nước, vì vậy nếu cơ thể bị khô héo họ phải chết. Naiad phản ánh khát vọng của người Hy Lạp cổ về cần thiết của yếu tố nước. Các Naiad có thể trở nên khá nguy hiểm đối với những người bộ hành và những người lạc, những Naiad xuất và quyến rũ những khách bộ hành này.

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Athena _ Chương 33


      Annabeth


      ANNABETH BIẾT MỌI CHUYỆN CÓ THỂ TỒI TỆ HƠN. Nếu phải mình tiếp tục làm nhiệm vụ kinh hoàng, ít nhất được ăn trưa với Percy bờ sông Tiber trước. Còn bây giờ được xe tay ga với Gregory Peck.

      biết về bộ phim đó từ cha . Trong vài năm qua, từ khi hai người họ làm hòa, họ dành nhiều thời gian cùng nhau, phát ở khía cạnh nào đó ông là người khá ngốc nghếch. Chắc chắn rằng ông thích lịch sử quân đội, vũ khí và máy bay hai tầng cánh, nhưng ông cũng thích những bộ phim cũ, đặc biệt là phim hài lãng mạn từ những năm 1940 đến 1950. Kỳ nghỉ ở Rome là trong số những bộ phim thích của ông. Ông buộc Annabeth xem nó.

      nghĩ nội dung khá ngớ ngẩn – công chúa trốn khỏi người giám sát và phải lòng nhà báo người Mĩ ở Rome – nhưng nghi ngờ cha thích nó bởi vì nó gợi ông nhớ đến mối tình lãng mạn của ông và nữ thần Athena: cặp đôi bất khả thi thể có kết thúc hạnh phúc. Cha giống Gregory Peck. Athena chắc chắn có gì giống Audrey Hepburn. Nhưng Annabeth biết mọi người nhìn thấy những gì họ muốn thấy. Họ cần Màn Sương Mù bẻ cong nhận thức của họ.

      Khi chiếc xe tay ga màu xanh lơ chạy vèo qua những con đường ở Rome, nữ thần Rhea Silvia cho Annabeth bài luận trực tiếp về việc thành phố thay đổi như thế nào nhiều thế kỉ qua.

      “Cầu Sublician ở đó,” , chỉ vào khúc cong sông Tiber. “Em có biết, nơi Horatius và hai người bạn bảo vệ thành phố khỏi quân xâm lược ? Chà, đó làmột người La Mã dũng cảm!”

      “Nhìn kìa, em ,” Tiberinus chen vào, “đó là nơi Romulus và Remus giạt vào bờ.”

      ta dường như đến chổ mà bầy vịt làm tổ trong mớ túi nhựa bị rách và giấy gói kẹo bên bờ sông.

      “À, phải,” Rhea Silvia thở dài hạnh phúc. “ rất tốt với lũ trẻ và cuốn những đứa con của em vào bờ để lũ sói tìm thấy chúng.”

      có gì,” Tiberinus .

      Annabeth cảm thấy choáng váng. Thần sông về điều gì đó xảy ra hàng ngàn năm trước, khi nơi này có gì ngoài những đầm lầy và những ngôi lều. Tiberinus cứu hai đứa trẻ, trong số chúng sáng lập ra đế chế vĩ đại nhất thế giới. có gì.

      Rhea Silvia chỉ vào tòa nhà chung cư rộng lớn, đại. “Nơi đó từng là đền thờ Venus. Sau đó nó thành nhà thờ. Kế tiếp là lâu đài. Rồi tòa nhà chung cư. Nó bị thiêu hủy ba lần. Bây giờ nó lại là tòa nhà chung cư. Và ngay chỗ kia–”

      “Làm ơn,” Annabeth . “Người làm tôi choáng váng.”

      Rhea Silvia bật cười. “Ta xin lỗi, cưng. Tầng tầng lớp lớp lịch sử ở đây, nhưng thứ gì có thể so sánh với Hy Lạp. Athena già khi Rome chỉ có những căn nhà trát bùn. Em thấy, nếu em sống sót.”

      “Chẳng giúp ích được gì,” Annabeth lầm bầm.

      “Đến nơi rồi,” Tiberinus thông báo. ta hướng đến tòa nhà bằng đá cẩm thạch rộng lớn, mặt tiền được bao phủ bởi lớp bụi nhưng vẫn đẹp. Đường bao mái[1] được trang trí bằng những vị thần La Mã chạm khắc công phu. Lối vào rộng lớn được chặn bởi cổng sắt, được khóa móc nặng nề.

      “Tôi phải vào trong?” Annabeth ước gì mang Leo theo cùng, hoặc ít nhất mượn máy cắt dây từ thắt lưng công cụ của cậu.

      Rhea Silvia che miệng và cười khúc khích. “, cưng. phải trong đó. Dướiđó.”

      Tiberius chỉ vào chổ những bậc thang đá ở bên của tòa nhà – thứ gì đó dẫn đến căn hộ ở tầng hầm nếu nơi đây là Manhattan.

      “Rome là nơi hỗn loạn,” Tiberinus , “nhưng thứ gì có thể so sánh với tầng đất bên dưới. phải vào thành phố bị chôn vùi, Annabeth Chase. Tìm kiếm án thờ của vị thần ngoại quốc. Những thất bại của kẻ tiền nhiệm chỉ dẫn . Sau đó…ta biết.”

      Ba lô của Annabeth dường như nặng nề hơn vai . nghiên cứu bản đồ đồng trong những ngày này, lùng sục thông tin trong máy tính của Daedalus. may là những thứ ít ỏi mà biết khiến nhiệm vụ càng trở nên thể thực được. “ chị em tôi… ai trong số họ tìm được đường đến đền thờ, họ làm được.”

      Tiberinus lắc đầu. “Nhưng biết những phần thưởng dành cho , nếu có thể giải thoát nó.”

      “Vâng,” Annabeth .

      “Nó có thể mang lại hòa bình cho những đứa trẻ Hy Lạp và La Mã,” Rhea Silvia . “Nó có thể thay đổi cuộc chiếc tranh sắp tới.”

      “Nếu tôi còn sống,” Annabeth .

      Tiberinus gật đầu buồn bã. “Bởi vì cũng nhận thức được những kẻ canh giữ mà phải đối mặt?”

      Annabeth nhớ tới đám nhện ở Đồn Sumter và giấc mơ mà Percy diễn tả – giọng rít lên từ bóng tối. “Vâng.”

      Rhea Silvia nhìn chồng . “Em ấy rất dũng cảm. Có lẽ em ấy còn mạnh hơn những người khác.”

      “Ta hy vọng là vậy,” vị thần sông . “Tạm biệt, Annabeth Chase. Và chúc may mắn.”

      Rhea Silvia rạng rỡ. “Chúng ta lên kế hoạch cho buổi chiều thú vị! mua sắm!”

      Gregory Peck và Audrey Hepburn phóng lên chiếc mô tô màu xanh lơ của họ. Sau đó Annabeth quay lại và xuống những bậc thang mình. ở dưới lòng đất khá nhiều lần.

      Nhưng xuống được nửa chừng, nhận ra biết bao lâu kể từ khi phiêu lưu mình. cảm thấy tê liệt.

      Thánh thần ơi… làm điều gì đó như thế này kể từ khi còn là đứa trẻ. Sau khi trốn khỏi nhà, phải tự cứu sống mình trong vài tuần, sống trong ngõ hẻm và lẩn tránh lũ quái vật cho đến khi Thalia và Luke bảo trợ . Rồi đến Trại Con Lai, sống ở đó đến năm mười hai tuổi. Sau đó, mọi nhiệm vụ của đều thực cùng Percy hoặc những người bạn khác của .

      Lần cuối cùng cảm thấy sợ hãi và độc là năm bảy tuổi. nhớ ngày Thalia, Luke và lạc vào hang ổ của Cyclopes ở Brooklyn. Thalia và Luke bị bắt và Annabeth giải cứu họ. vẫn nhớ mình ngồi run rẫy trong góc tối của căn biệt thự đổ nát, nghe thấy tiếng Cyclopes bắt chước giọng của các bạn , cố gắng lừa bước ra.

      Nhỡ đây cũng là cái bẫy sao? tự hỏi. Ngộ nhỡ những đứa con khác của Athena chết bởi vì Tiberinus và Rhea Silvia đưa họ đến cái bẫy? Liệu Gregory Peck và Audrey Hepburn có làm điều gì đó giống như vậy?

      buộc mình phải tiếp. lựa chọn. Nếu bức tượng Athena Parthenos ở dưới đây, nó có thể quyết định số phận của cuộc chiến tranh. Quan trọng hơn, nó có thể giúp mẹ . Athena cần .

      Ở bậc thang cuối cùng thấy cánh cửa gỗ với vòng kéo sắt. vòng kéo là tấm kim loại với lỗ khóa. Annabeth bắt đầu xem xét nhiều cách để cạy cái khóa, nhưng ngay khi chạm vào vòng kéo, ngọn lửa cháy lên giữa cánh cửa: hình chiếu con cú của Athena. Khói túa ra từ lỗ khóa. Cánh cửa bật vào trong.

      Annabeth nhìn lên lần cuối cùng. Ở đầu cầu thang, bầu trời là mảng vuông màu xanh rực rỡ. Những người phàm tận hưởng buổi chiều ấm áp. Các cặp đôi nắm tay nhau trong các quán café. Du khách nhộn nhịp qua các cửa hàng và viện bảo tàng. Những người La Mã bình thường làm công việc hằng ngày của họ, quan tâm đến lịch sử hàng ngàn năm dưới chân họ và chắc chắn biết đến các linh hồn, thần thánh và lũ quái vật vẫn còn cư ngụ ở đây, hoặc rằng thành phố của họ bị phá hủy ngay hôm nay nếu nhóm á thần thành công trong việc ngăn chặn bọn khổng lồ.

      Annabeth bước qua ngưỡng cửa.

      nhận ra mình ở trong tầng hầm với kiến trúc cyborg[2]. Những bức tường gạch cổ xưa được đặt chéo nhau với những sợi cáp điện đại và hệ thống ống nước. Trần được chống đỡ bởi kết hợp giữa giàn giáo thép và các cột đá La Mã cổ bằng đá hoa cương.

      Nửa phần trước của tầng hầm, các thùng chứa được xếp thành chồng. Vì tò mò, Annabeth mở vài thùng. số chứa đầy những cuộn dây nhiều màu sắc – dành cho những con diều hay tác phẩm nghệ thuật và các công trình thủ công. Những thùng khác đầy ắp những thanh kiếm đấu sĩ bằng nhựa rẻ tiền. Có lẽ đây từng là khu lưu trữ của cửa hàng du lịch.

      Ở phần sau của tầng hầm, sàn được khai quật, để lộ ra những bậc thang – bằng đá trắng – dẫn vào nơi sâu hơn trong lòng đất.

      Annabeth rón rén đến mép bậc thang. Ngay cả với ánh sáng từ con dao găm của , bên dưới vẫn quá tối. đặt tay lên tường và tìm kiếm công tắc đèn.

      bật nó. Bóng đèn huỳnh quang trắng rọi sáng cầu thang. Phía dưới, nhìn thấy sàn kiểu khảm được trang trí hình nai và thần nông – có thể là căn phòng của biệt thự La Mã cổ, được giấu bên dưới tầng hầm đại với đống thùng chứa dây và kiếm nhựa.

      leo xuống. Căn phòng khoảng sáu mét vuông. Các bức tường từng được sơn để trông cho tươi sáng, nhưng hầu hết bích họa[3] đều bị bong tróc hoặc bị mờ. Lối thoát duy nhất là cái lỗ được đào ở góc sàn nhà nơi mà các bức tranh khảm bị kéo lên. Annabeth cúi xuống bên cạnh cái lỗ. Nó dẫn thẳng xuống cái hang lớn, nhưng Annabeth thể nhìn thấy đáy.

      nghe tiếng nước chảy có lẽ là chín hay mười hai mét bên dưới. khí có mùi của cống nước thải – chỉ hơi cũ và mốc, hơi ngọt, giống như hoa bị phân hủy. Có thể là dòng nước từ cống thoát. có cách nào để xuống đó.

      “Mình nhảy xuống đó,” lầm bầm mình.

      Như trả lời , thứ gì đó phát sáng trong bóng tối. Dấu Athena sáng rực dưới đáy hang động, để lộ hàng gạch lấp lánh dọc theo đường ống ngầm mười hai mét bên dưới. Con cú trong ngọn lửa dường như trêu chọc : Này, đây là lối , nhóc à. Vì thế nên suy nghĩ .

      Annabeth cân nhắc các lựa chọn cho mình. Nhảy xuống quá nguy hiểm. có thang hay dây thừng. nghĩ đến việc mượn giàn giáo kim loại ở kia để sử dụng làm trụ chống, nhưng nó được cố định tại chổ. Bên cạnh đó, muốn làm tòa nhà sụp lên đầu mình.

      thất bại đục khoét như quân đoàn mối. dành cả đời mình nhìn các á thần khác đạt được những sức mạnh tuyệt vời. Percy có thể điều khiển nước. Nếu cậu ở đây, cậu có thể dâng cao mực nước và dễ dàng trôi xuống. Hazel, từ những điều , có thể tìm thấy hướng dưới lòng đất với độ chính xác hoàn hảo và thậm chí tạo ra hoặc thay đổi hướng của đường hầm. có thể dễ dàng tạo con đường mới. Leo lấy công cụ thích hợp từ thắt lưng của cậu và dựng nên thứ gì đó để làm việc. Frank có thể hóa thành chim. Jason có thể dễ dàng điều khiển gió và xuống bên dưới. Ngay cả Piper với lời mê hoặc… có thể thuyết phục Tiberinus và Rhea Silvia giúp đỡ nhiều hơn.

      Annabeth có gì? con dao bằng đồng có gì đặc biệt và đồng xu bạc bị nguyền rủa. còn có ba lô chứa máy tính của Daedalus, chai nước, ít thức ăn thần thánh cho trường hợp khẩn cấp và hộp diêm – có thể là vô dụng, nhưng cha gieo vào đầu việc nên luôn mang theo thứ gì đó tạo ra lửa.

      có sức mạnh nào đáng kinh ngạc. Thậm chí món đồ phép thuật duy nhất của , chiếc mũ Yankees New York làm tàng hình, còn hoạt động và vẫn còn ở trong cabin của tàu Argo II.

      có trí tuệ của , giọng vang lên. Annabeth tự hỏi liệu có phải Athena chuyện với , nhưng đó có lẽ chỉ là mơ tưởng.

      Trí tuệ…giống như người hùng thích của Athena, Odysseus. Ông thắng Cuộc chiến thành Troy bằng trí thông minh, phải bằng sức mạnh. Ông vượt qua mọi loài quái vật và khó khăn bằng mưu trí của mình. Đó là giá trị của Athena.

      Con của trí tuệ mình.

      Điều đó có nghĩa là có ai khác, Annabeth nhận ra. Nó có nghĩa là có bất cứ sức mạnh đặc biệt nào.

      Được rồi…vậy là cách nào xuống đó an toàn và chắc chắn rằng lối thoát ra ngoài khi cần thiết?

      leo trở lại tầng hầm và nhìn chằm chằm vào mấy thùng chứa mở. Dây diều và kiếm nhựa. Ý tưởng đó ngớ ngẩn, gần như bật cười; nhưng có còn hơn .

      bắt đầu làm việc. Tay dường như biết chính xác việc phải làm. Đôi khi điều đó xảy ra, như khi giúp Leo với máy móc tàu hoặc vẽ những công trình kiến trúc máy tính. chưa từng làm bất cứ thứ gì bằng dây diều và kiếm nhựa, nhưng mọi chuyện khá dễ dàng, tự nhiên. Trong vài phút sử dụng tá mấy cuộn dây và thùng các thanh kiếm để tạo ra cái thang dây tạm thời – các sợi dây được bện, kết lại để vừa bền vừa quá dày, những thanh kiếm gắn vào với khoảng cách hai bước chân để làm chổ vịn tay chân được vững chắc.

      Để thử, gắn đầu xung quanh cột chống và dựa vào dây thừng với tất cả trọng lượng cơ thể. Mấy thanh kiếm nhựa cong lại bên dưới , chúng khiến các nút thắt dây chặt hơn, như vậy ít ra có thể nắm chặt hơn.

      Cái thang giành được bất cứ giải thưởng thiết kế nào, nhưng nó có thể đưa đến đáy hang cách an toàn. Đầu tiên, nhét mấy cuộn dây còn lại vào ba lô. chắc lý do tại sao, như thế thêm nguồn cung cấp và cũng quá nặng nề.

      quay lại cái lỗ sàn khảm. cố định đầu của cái thang vào phần gần nhất của giàn giáo, hạ dây thừng xuống hang động và leo xuống.




      [1] Đường bao mái được sử dụng để mô tả các bảng nổi tường, mặt trần, ván diềm và lớp bao phủ tạo thành mặt tiền ngay dưới mái nhà và mái hiên của hầu hết các căn nhà. Có thể làm từ gỗ, nhưng cũng có thể được làm bằng nhựa.







      [2] Sinh vật cơ khí hóa, công trình thực mang tính kiểu máy móc, công nghệ số, siêu thực và hình học nhiều hơn, có rất nhiều các đường uốn lượn, đường nối như sân vận động tổ chim ở Bắc Kinh chẳng hạn, tương tự như sinh vật nửa người nửa máy với rất nhiều cơ quan, dây nhợ, máy móc chằng chịt.







      [3] Bích họa nghĩa là tranh vẽ lên tường.







      The Mark of Athena _ Chương 34


      Annabeth


      KHI ANNABETH LỦNG LẲNG , tay nọ tiếp tay kia lần xuống cái thang đung đưa dữ dội, biết ơn Chiron vì bao năm huấn luyện leo trèo ở Trại Con Lai. từng hay to tiếng phàn nàn rằng leo dây chả bao giờ giúp mình đánh bại được lấy con quái vật nào cả. Chiron chỉ mỉm cười, như thể biết ngày này tới.

      Cuối cùng Annabeth cũng xuống được tới đáy. trượt khỏi rìa gạch và đáp xuống con rạch, nhưng nó hóa ra lại chỉ sâu có vài icnh. Nước lạnh cóng xộc vô giày của .

      giơ cao con dao phát sáng. Con rạch cạn chạy xuống giữa đường hầm bằng gạch. Cứ vài thước lại có những ống nước bằng gốm nhô ra từ tường. đoán chúng là ống thoát nước, phần của hệ thống dẫn nước La Mã cổ đại, dù thế, thấy tuyệt khi đường hầm thế này còn tồn tại dày đặc dưới lòng đất với những đường ống, tầng hầm và cống rãnh trị giá hàng thế kỷ.

      ý nghĩ đột ngột khiến ớn lạnh hơn cả nước. Vài năm trước, Percy cùng từng thực nhiệm vụ ở mê cung Daedalus- mạng lưới ngầm các đường hầm và phòng ốc, mê hoặc mạnh mẽ và đầy cạm bẫy, chạy khắp dưới lòng tất cả các thành phố của Mỹ.


      Khi Daedalus chết trong Trận chiến chốn Mê cung, toàn bộ mê cung sụp đổ – hoặc Annabeth tin thế. Những giả sử đó chỉ là ở Mỹ thôi sao? Gỉa như đây là phiên bản cổ hơn của mê cung sao? Daedalus từng bảo là mê cung của ông ta có cuộc sống riêng. Nó ngừng thay đổi và phát triển. Có lẽ mê cung có thể tái tạo, như quái vật chẳng hạn. Có thể lắm. Đó là thế lực nguyên thủy, như Chiron từng – những thứ bao giờ có thể thực chết .

      Nếu đây là phần của mê cung…

      Annabeth quyết định nghĩ tới nó nữa, nhưng quyết định cho rằng hướng của mình là đúng. Mê cung khiến khoảng cách trở nên vô nghĩa. Nếu cẩn thận, có thể chệch hướng hai mươi bộ và thành ra tới Ba Lan.

      Để an toàn, buộc cuộn dây mới vào phần cuối cái thang dây. có thể gỡ nó ra sau khi tìm hiểu xong. Mánh cũ mà hay.

      cân nhắc nên hướng nào. Đường hần trông hệt nhau về cả hai phía. Rồi, khoảng năm mươi bộ về phía trái , dấu hiệu Athena lại bùng cháy bức tường. Annabeth thề là nó chằm chằm nhìn bằng đôi mắt to rực lửa, kiểu bảo, bị gì thế hả? Mau lên chứ!

      bắt đầu thực ghét con cú.

      Ngay khi tới được chỗ đó, hình đấy mờ và cuộn dây đầu tiên hết.

      Khi buộc thêm cuộn dây mới, liếc về phía bên kia đường hầm. Có phần đổ vỡ tường gạch, như thể có cái búa tạ dục lỗ tường. tiến tới nhìn cho kỹ. thò dao qua lỗ hổng cho sáng, Annabeth có thể thấy căn phòng thấp hơn, dài và hẹp, sàn phòng đá khảm, bích họa và các băng ghế chạy xuống hai bên. Căn phòng tạo hình như toa xe điện ngầm.

      chui đầu vào lỗ, hi vọng có cái gì cắn đứt đầu. Đầu phòng gần đấy là cánh cửa giả. Đầu phòng phía xa có cái bàn bằng đá, hay án thờ cũng nên.

      Hmm…Đường hầm dẫn nước vẫn còn chạy tiếp, nhưng Annabeth chắc chắn đây là lối chuẩn. nhớ Tiberinus : Tìm kiếm án thờ của vị thần ngoại quốc. Dường như có bất kỳ lối nào khỏi phòng thờ, nhưng chỉ có quãng ngắn tới chiếc ghế phía dưới. có thể lại trèo lên được vấn đề gì.

      Vẫn giữ sợi dây, hạ dần xuống.

      Trần phòng hình thùng[1] với những mái vòm bằng gạch, nhưng Annabeth thích hình dạng các cột chống. Ngay đầu , mái vòm gần nhất với cánh cửa chắn gạch, tấm đá bị nứt làm đôi. Khe nứt căng lực chạy ngang trần phòng. Nơi này có lẽ giữ được nguyên vẹn tầm hai ngàn năm, nhưng quyết định muốn dành nhiều thời gian ở đây. Với vận may của , nó sụp trong vòng hai phút mất.

      Sàn nhà là bức khảm hẹp dài với bảy bức tranh hàng, như dòng thời gian. Ở ngay chân Annabeth là con quạ. Canh đấy là con sư tử. Vài cái khác trông như những chiến binh La Mã với vũ khí đủ loại. Phần còn lại hư hại quá mức hoặc phủ bụi quá dày để Annabeth nhìn chi tiết cho được. Hai băng ghế hai bên rải rác các mảnh gốm vỡ. Các bức tường vẽ cảnh các bữa yến tiệc: người đàn ông mặc áo chùng với chiếc mũ vành cong như thìa xúc kem[2], ngồi cạnh là gã to con hơn, người tỏa ra tia nắng. Ngồi quanh họ là những người cầm đuốc, người hầu và đủ loài động vật khác nhau như quạ, sư tử thẩn thơ làm nền. Annabeth chắc bức tranh diễn tả cái gì, nhưng nó gợi nhớ tới bất kỳ truyền thuyết Hy Lạp nào mà biết.

      Đầu phía kia căn phòng, án thờ được chạm trổ công phu với bức phù điêu khắc người đàn ông đội chiếc mũ-thìa-kem dí dao vô cổ bò mộng. án thờ đặt tượng người đàn ông bằng đá bị ngập trong đá tới tận gối, con dao găm và ngọn đuốc hai tay giương cao. Thêm lần nữa, Annabeth biết những hình ảnh đó có ghĩa gì.

      bước bước về phía án thờ. Chân đánh RẮC tiếng. nhìn xuống và nhận thấy mình xỏ giầy qua khung xương sườn của con người.

      Annabeth nuốt lại tiếng hét vô bụng. Cái đó từ đâu mà có? mới nhìn xuống khoảnh khắc trước và có thấy cái xương nào đâu. Giờ sàn phòng rải đầy những sương là xương. Khung xương sườn chắc xưa lắm rồi. Nó tan thành tro bụi ngay khi bỏ chân ra. Gần đó đặt con dao găm bằng đồng rất giống con của . Hoặc là vũ khí người chết mang theo, hoặc là vũ khí giết chết người này.

      giơ con dao của mình ra xa để thấy được phía trước. Xa hơn chút dưới lối khảm đá, bộ xương hoàn chỉnh hơn nằm dài phần còn lại của chiếc áo chẽn thêu màu đỏ, như người thời kỳ phục hưng. Cổ áo xếp nếp và hộp sọ của ta bị cháy rất nặng, như thể chàng quyết định gội đầu bằng cây đèn hàn.

      Tuyệt, Annabeth nghĩ. ngước mắt lên nhìn bức tượng bàn thờ cầm con dao và ngọn đuốc.

      kiểu kiểm tra gì đó, Annabeth đoán định. Hai người này thất bại. Đính chính: phải chỉ hai người. Còn nhiều xương và mảnh áo quần rải rác khắp lối đến án thờ. thể đoán có bao nhiêu bộ xương diện, nhưng sẵn sàng cá rằng họ đều là á thần trước kia, con của Athena thực cùng nhiệm vụ.

      “Tôi thành bộ xương nữa sàn phòng của ông đâu,” với bức tượng, hi vọng tiếng mình nghe có vẻ dũng cảm.

      con bé, giọng nhạt nhẽo cất lên, vang vọng khắp phòng. Đàn bà con được chấp nhận.

      nữ á thần, giọng thứ hai bảo. thể tha thứ được.

      Căn phòng rung ầm ầm. Bụi rơi xuống từ trần nhà bị nứt. Annabeth phóng về cái lỗ chui qua, nhưng nó biến mất. Dây của bị cắt đứt. trèo lên băng ghế và đập vô bức tường nơi từng có cái lỗ, mong rằng vắng mặt của nó chỉ là ảo ảnh, nhưng bức tường rất rắn.

      bị bẫy.

      Dọc những băng ghế, tá các bóng ma lung linh ra – những người đàn ông ánh tím mặc áo chùng La Mã, như các thần Lar từng thấy ở trại Jupiter. Họ nhìn chằm chằm như thể phá đám cuộc họp của mình vậy.

      làm điều duy nhất có thể. bước xuống khỏi băng ghế và quay lưng lại lối vào bít gạch. cố tỏ ra tự tin dù những bóng ma màu tím cau có và các bộ xương á thần dưới chân khiến chỉ muốn rụt cổ vào trong chiếc áo phông của mình mà hét.

      “Tôi là đứa con của Athena,” , mạnh dạn hết mức có thể.

      đứa Hy Lạp,” trong những bóng ma ghê tởm . “Còn tồi tệ hơn nữa.”

      Ở đầu kia căn phòng, bóng ma trông già nua khó nhọc đứng dậy (ma có bị viêm khớp nhỉ?) và đứng cạnh án thờ, đôi mắt đen nhìn chăm chăm Annabeth. Ý nghĩ đầu tiên của là trông ổng như Đức Giáo Hoàng. Ổng có áo choàng lấp lánh, mũ nhọn và cây trượng mục sư.

      “Đây là hang động của Mithras,” bóng ma già . “ quấy rầy nghi lễ thiêng liêng của bọn ta. thể biết được bí mật của chúng ta mà vẫn sống sót được.”

      “Tôi đâu có muốn biết bí mật của các ông cơ chứ,” Annabeth trấn an ông ta. “Tôi lần theo Dấu hiệu Athena. Chỉ tôi lối ra và tôi tự đường mình.”

      Giọng bình tĩnh tới mức làm chính mình ngạc nhiên. biết làm sao ra được khỏi đây nhưng biết mình phải thành công ở nơi chị em mình thất bại. Con đường của dẫn xa hơn – sâu hơn vào các tầng đất dưới lòng Rome.

      Những thất bại của các kẻ tiền nhiệm chỉ dẫn . Sau đó…ta biết.

      Các bóng ma thầm với nhau bằng tiếng latin. Annabeth chộp được vài lời hay về nữ á thần và Athena.

      Cuối cùng, bóng ma đội mũ Giáo Hoàng gõ cây trượng mục sư của mình lên sàn phòng. Những thần Lar khác rơi vào im lặng.

      “Nữ thần Hy Lạp của bất lực ở đây,” giáo hoàng bảo. “Mithras là vị thần của các chiến binh La Mã! Ngài là vị thần của quân đoàn, vị thần của đế chế!”

      “Ổng còn chả phải người La Mã nữa,” Annabeth phản đối. “Phải hả, kiểu như người Ba Tư hay gì gì đó?”

      “Phạm thánh!” lão già hét lên, đập cây gậy của mình lên sàn phòng vài lần nữa. “Mithras bảo vệ chúng ta! Ta là pater của hội huynh đệ này–”

      “Người cha,” Annabeth dịch ra.

      “Đừng có cắt ngang! Là pater, ta phải bảo vệ bí mật của chúng ta.”

      “Bí mật nào?” Annabeth hỏi. “ tá người chết mặc toga ngồi quanh cái động hở?”

      Các bóng ma làm bầm với phàn nàn tới khi pater đưa họ về dưới kiểm soát bằng tiếng huýt gọi taxi. Lão già có bộ phổi tốt . “ kẻ vô tín. Như những tên khác, phải chết.”

      Những tên khác. Annabeth gắng nhìn những bộ xương.

      Tâm trí làm việc điên cuồng, nắm bắt bất cứ điều gì biết về Mithras. Ông ta có giáo phái bí mật cho các chiến binh. Ông ta rất nổi tiếng trong quân đoàn. Ông ta là vị thần, người thay thế Athena làm thần chiến tranh. Aphrodite nhắc tới ông ta trong bữa trà tán gẫu của họ ở Charleston. Ngoài ra, Annabeth chả biết gì nữa. Mithras phải là trong những vị thần họ tới ở Trại Con Lai. nghi ngờ các bóng ma chẳng đợi rút máy tính xách tay của Daedalus ra rồi tìm phát đâu.

      lướt nhìn sàn phòng khảm đá – bảy bức tranh hàng. nghiên cứu các bóng ma và nhận thấy tất cả đều đeo cùng vài loại huy hiệu áo toga – con quạ, ngọn đuốc hay cây cung.

      “Các ông có các nghi lễ thông hành,” buột miệng. “Bảy cấp bậc thành viên. Và cấp cao nhất là pater.”

      Các bóng ma hít vô tập thể. Rồi họ bắt đầu la lớn cùng lúc.

      “Làm sao ta biết được?” người gặng hỏi.

      “Con nhóc soi ra bí mật của tụi ta!”

      “Im lặng! vị pater ra lệnh.

      “Nhưng ta có thể biết về các thử thách!” người khác thét.

      “Các thử thách!” Annabeth bảo. “Tôi biết về chúng!”

      màn há miệng hoài nghi nữa.

      “Vớ va vớ vẩn!” Vị pater hắng lên. “Con nhóc dối! Con Athena, chọn cách chết . Nếu chọn, thần chọn cho !”

      “Lửa hoặc dao hả,” Annabeth đoán.

      Cả vị pater trông cũng kinh hoàng. Chắc chắn lão ta biết là có các nạn nhân bị trừng trị trước đây nằm dưới sàn.

      “Làm – làm sao …?” Lão nuốt khan. “ là ai?”

      đứa con của Athena,” Annabeth lại . “Nhưng phải đứa bất kỳ. Tôi là…à, mater hội tỷ muội của tôi. Thực ra là Magna mater. Chẳng có gì là bí mật đối với tôi. Mithras chẳng che giấu được gì khỏi tầm mắt của tôi.”

      “Magna mater!” bóng ra rền rĩ tuyệt vọng. “Mẹ cả!”

      “Giết nó!” trong những bóng ma tấn công, tay gã giơ ra bóp cổ nhưng lại xuyên thẳng qua người .

      “Ông chết rồi,” Annabeth nhắc gã nhớ. “Ngồi xuống thôi.”

      Bóng ma trông bối rối quay lại chỗ ngồi.

      “Chúng ta tự tay giết ,” vị pater càu nhàu. “Mithras thay bọn ta làm điều đó!”

      Bức tượng án thờ bắt đầu sáng lên.

      Annabeth tì tay vào lối bít gạch sau lưng. Đó phải là lối ra. Vữa nát ra, nhưng đủ yếu để phá ra bằng sức mạnh tay chân.

      tuyệt vọng nhìn quanh phòng – trần nhà nứt toác, sàn khảm, bích họa và án thờ chạm trổ. bắt đầu , giải trừ các suy diễn đặt lên mình.

      ích gì đâu,” bảo. “Tôi biết tất. Các ông kiểm tra các đồng đạo nhập môn của mình bằng lửa bởi đuốc là biểu tượng của Mithras. biểu tượng khác của ngài ấy là dao găm, đấy là lý do tại sao các ông lại có thể được kiểm tra bằng dao. Các ông muốn giết tôi…a, như Mithras kết kiễu con bò thiêng chứ gì.”

      Toàn là đoán cả, nhưng án thờ khắc hình Mithras giết con bò mộng nên Annabeth phát ra nó rất quan trọng. Các bóng ma rền rĩ và bịt tai lại. số tự vả vô mặt như mới tỉnh giấc khỏi cơn ác mộng.

      “Mẹ cả biết đấy!” kẻ . “ thể nào!”

      Trừ phi ông nhìn quanh phòng, Annabeth nghĩ, tự tin dâng lên.

      chằm chằm nhòn bóng ma mới . Ông ta đeo huy hiệu quạ toga – cùng biểu tượng với sàn phòng dưới chân .

      “Ông chỉ ở cấp quạ thôi,” mắng. “Đấy là cấp thấp nhất. Im và để ta với patercủa ông.”

      Bóng ma rùng mình. “Chao ôi! Chao ôi!”

      Phía trước căn phòng, vị pater run lên – hoặc giận hoặc sợ, Annabeth chắc là tại cái nào. Mũ giáo hoàng nghiêng về bên như máy đo khí giảm dần tới mức chân . “Qủa nhiên, biết rất nhiều, mẹ cả à. Trí khôn của rất tuyệt, nhưng đó là tất cả lý do tại sao thể rời được. Người thợ dệt cảnh báo chúng tôi tới.”

      “Người thợ dệt…” Annabeth cảm thấy nôn nao nhận ra điều vị pater : thứ trong bóng tối từ giấc mơ của Percy, kẻ canh giữ ngôi đền. Đây là lần duy nhất mong sao mình đừng biết câu trả lời, nhưng cố duy trì bình tĩnh. “Mụ thợ dệt sợ tôi. Bà ta muốn tôi lần theo Dấu hiệu Athena. Nhưng các ông để tôi qua.”

      phải chọn thử thách!” vị pater khăng khắng. “Dao hay lửa! Sống sót qua thử thách, và rồi, có khi được!”

      Annabeth nhìn xuống những khúc xương của em mình. Những thất bại của các kẻ tiền nhiệm chỉ dẫn .

      Họ đều chọn cái này hoặc cái kia: lửa hay dao. Có lẽ họ nghĩ mình có thể vượt qua thử thách. Nhưng họ đều chết cả. Annabeth cần lựa chọn thứ ba.

      nhìn bức tượng án thờ sáng hơn qua từng giây. có thể cảm nhận sức nóng của nó từ bên kia phòng. Bản năng của là tập trung vào con dao hoặc ngọn đuốc, nhưng thay vào đấy, lại tập trung vào cơ sở bức tượng. tự hỏi sao chân nó lại kẹt trong đá. Rồi ý nghĩ nảy ra trong : có lẽ bức tượng của Mithras bịmắc kẹt trong đá. Có lẽ ông ta trồi lên từ đá.

      phải đuốc hay dao,” Annabeth chắc chắn . “Có bài kiểm tra thứ ba, bài mà tôi vượt qua.”

      bài kiểm tra thứ ba?” vị pater hỏi gặng.

      “Mithras sinh ra từ đá,” Annabeth , hy vọng mình đúng. “Ngài ấy sinh ra và lớn lên hoàn toàn từ đá, cầm trong tay đuốc và dao.”

      Tiếng la hét và rền rĩ mách biết mình đoán đúng.

      “Mẹ cả biết tất!” bóng ma thét lớn. “Đó là bí mật được bảo vệ chặt chẽ nhất của chúng ta!”

      Rồi có khi các ông nên đặt bức tượng về nó ngay án thờ, Annabeth nghĩ. Nhưng rất biết ơn những bóng ma nam ngu ngốc này. Nếu họ chấp nhận nữ chiến binh vào giáo phái, có khi lại học được chút tri thức thông dụng.

      Annabeth đột ngột chỉ bức tường chỗ vừa qua. “Tôi sinh ra từ đá, như Mithras vậy! Do đó, tôi vượt qua thử thách của các ông rồi!”

      “Phì!” vị pater nhổ nước bọt. “ đến từ cái lỗ tường! giống nhau gì sất.”

      Được thôi. Thế ràng là vị pater này đần hoàn toàn, nhưng Annabeth vẫn giữ tự tin. ngước nhìn trần nhà, ý tưởng khác đến với – tất cả các chi tiết khớp vào nhau.

      “Tôi từng điều khiển rất nhiều đá.” giương tay lên. “Tôi chứng minh sức mạnh của mình vượt cả Mithras. Bằng cú duy nhất, tôi đánh sập căn phòng này.”

      Các bóng ma rền rĩ và run run nhìn lên trần nhà, nhưng Annabeth biết họ thấy cái thấy. những bóng ma này là chiến binh, phải kỹ sư. Con cái Athena có rất nhiều kỹ năng và chỉ trong chiến đấu mà thôi. Annabeth học kiến trúc trong nhiều năm. biết căn phòng cổ này bờ đổ sập đến nơi. nhận thấy những khe nứt căng lực trần rất tệ, tất cả bắt nguồn từ điểm duy nhất – đỉnh vòm đá ngay phía mình. Phần đá đỉnh sắp sụp và khi điều đó xảu ra, nếu có thể căn chuẩn thời gian…

      “Bất khả thi!” vị pater hét. “Người thợ dệt trả chúng ta rất nhiều cống phẩm để tiêu diệt bất cứ đứa con nào của Athena dám vào điện thờ của chúng ta. Bọn ta chưa bao giờ khiến bà ấy thất vọng. Bọn ta cho qua được.”

      “Các ông sợ sức mạnh của tôi!” Annabeth bảo. “Ông thừa nhận rằng tôi có thể hủy căn phòng thiêng liêng của các người!”

      Vị pater cau mày. Lão khó khăn vuốt thẳng chiếc mũ của mình. Annabeth biết đặt lão vào tình huống tiến thoái lưỡng nan. Lão thể lùi bước mà tỏ ra hèn nhát.

      “Làm tệ hết sức , con Athena,” lão quyết định. “ kẻ nào có thể đánh sập hang động của Mithras, đặc biệt chỉ với cú đập. Đặc biệt phải là con nhóc!”

      Annabeth giơ cao con dao. Trần rất thấp. có thể với tới viên đá đỉnh dễ dàng, nhưng phải tính toán vừa cú thôi.

      Lối vào phái sau bị bít, nhưng theo lý thuyết, nếu căn phòng sụp, nếu căn phòng bắt đầu sập, những viên gach đó yếu và sụp đổ. có thể phá lấy đường ra trước khi toàn bộ trần nhà sụp xuống – giả như thế, tất nhiên là thế, có cái gì phía sau bức tường gạch, chỉ là đất cứng; và giả như Annabeth phải đủ nhanh, mạnh và may mắn. Nếu , thành bánh kếp á thần[3].

      “Này, các cậu trai,” bảo. “Có vẻ các người chọn nhầm thần chiến tranh rồi.”

      tấn công phần đỉnh. Lưỡi dao đồng Thiên Thai phá vỡ nó như viên đường. trong khoảnh khắc, chả có gì xảy ra.

      “Ha!” vị pater hả hê. “Thấy chưa? Athena chả có sức mạnh quái gì ở đây sất!”

      Căn phòng rung lắc. vết nứt chạy ngang chiều dài của trần phòng và phía bên kia hàng động sụp đổ, chôn vùi bàn thờ và cả vị pater. Các vết nứt rộng thêm. Gạch rơi xuống từ mái vòm. Các bóng ma la hét chạy loạn nhưng họ có vẻ như xuyên qua được tường. ràng họ bị ràng buộc với căn phòng này kể cả khi chết.

      Annabeth quay . đập mạnh vô lối vào bị bít hết sức có thể và gạch rời ra. Khi hang động của Mithras nổ sập phía sau , lao vào bóng tối và thấy mình rơi.




      [1] Có 2 loại như mình search ra, 1 loại ‘thùng đứng’ 1 loại ‘thùng ngang’, nhưng nếu căn phòng dài và hẹp chắc loại dài hẹp đúng hơn rồi











      [2] nó cong thía lày







      [3] bánh kếp làm bằng bơ, bột mì, trứng là chủ yếu







      Tượng ai đó sinh ra từ đá, định để đầu bài nhưng hơi bất nhã cho xuống đây vậy

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Athena _ Chương 35


      Annabeth


      ANNABETH NGHĨ RẰNG BIẾT ĐAU ĐỚN LÀ GÌ.

      từng rơi khỏi bức tường nham thạch tại Trại Con Lai. từng bị đâm vào cánh tay bằng lưỡi kiếm tẩm độc cầu Williamsburg. thậm chí từng phải giữ sức nặng của bầu trời vai mình.

      Nhưng tất cả chẳng là gì so với việc tiếp đất khó khăn bằng mắt cá chân.

      ngay lập tức biết nó bị vỡ. Đau đớn giống như sợi dây thép nóng đâm xuyên vào chân lên đến tận hông. Thế giới thu hẹp lại chỉ còn , mắt cá chân và cơn đau.

      gần như ngất . Đầu óc quay cuồng. Hơi thở của trở nên gấp gáp.

      , tự nhủ. Mi thể bị choáng được.

      cố gắng thở chậm hơn. vẫn nằm đó cho đến khi cơn đau giảm dần từ tra tấn tuyệt đối đến chỉ còn những cơn đau nhói.

      phần trong muốn hét lên rằng thế giới bất công. Suốt ngần ấy quãng đường, chỉ để bị thứ vặt vãnh như cái mắt cá chân bị thương cản lại sao?

      ép cảm xúc của mình xuống. Tại trại, được đào tạo để tồn tại trong tất cả các tình huống xấu nhất, bao gồm cả những chấn thương như thế này.

      nhìn xung quanh mình. Con dao găm của văng ra cách vài bộ. Trong ánh sáng lờ mờ, có thể thấy được các đặc điểm của căn phòng. nằm sàn nhà lạnh được làm từ các khối đá sa thạch. Trần nhà cao khoảng hai tầng. Cánh cửa mà rơi qua cách mặt đất khoảng ba mét, bây giờ hoàn toàn bị chặn bởi các mảnh vỡ đổ xuống như thác vào trong phòng, gây nên trận lở đá. Rải rác xung quanh là những mảnh gỗ cũ– số bị nứt và khô, số khác được dùng làm mồi lửa.

      Ngu ngốc, tự mắng chính mình. lao tới cánh cửa, nghĩ rằng hành lang hoặc căn phòng khác. Chuyện bị rơi vào khoảng chưa từng được lường tới. Đám gỗ vụn hẳn là cái cầu thang bằng gỗ sụp đổ từ lâu.

      kiểm tra mắt cá chân của mình. Chân xuất dấu hiệu bất thường nào. có thể cảm thấy các ngón chân của mình. cũng thấy máu. Tất cả vẫn tốt.

      với tay lấy mảnh gỗ. Chỉ cử động thế thôi khiến phải kêu lên.

      Tấm ván vỡ vụn trong tay . Có thể mảnh gỗ có từ hàng thế kỷ, thậm chí là hàng thiên niên kỷ. biết liệu căn phòng này có cũ hơn đền thờ của Mithras , hay–giống như mê cung–căn phòng là mớ hỗn tạp từ nhiều thời đại bị ngẫu nhiên thảy chung lại với nhau.

      “Được rồi,” to, chỉ để nghe được giọng của mình. “Suy nghĩ nào, Annabeth. Ưu tiên”.

      nhớ lại khoá học sống sót nơi hoang dã ngớ ngẩn Grover dạy khi ở trại. Ít nhất là nó có vẻ ngớ ngẩn vào thời điểm đó. Bước đầu tiên: Kiểm tra kỹ các mối đe dọa từ môi trường xung quanh.

      Căn phòng này có vẻ có nguy cơ bị sụp đổ. Trận lở đá dừng lại. Bức tường được ghép từ những khối đá vững chắc có vết nứt lớn nào mà thấy được. Trần nhà cũng bị sụt xuống. Tốt.

      Lối thoát duy nhất ở bức tường phía xa– cánh cửa hình vòm dẫn vào bóng tối.

      Giữa và cánh cửa, cái rãnh bằng đá cắt ngang sàn nhà, cho phép dòng nước chảy từ phía trái căn phòng sang phía bên phải. Có thể đường ống dẫn nước này có từ thời La Mã? Nếu nước này có thể uống được tốt.

      số bình gốm được chất đống trong góc vỡ, tràn ra những khối màu nâu nhăn nheo có lẽ từng là trái cây. Kinh. Trong góc khác có số thùng gỗ trông còn khá nguyên vẹn và vài chiếc hộp đan bằng liễu gai với dây quai bằng da.

      “Vậy là, có gì nguy hiểm,” tự nhủ. “Trừ khi có thứ gì đó xông ra từ phía đường hầm tối tăm kia”.

      nhìn chằm chằm vào cánh cửa, gần như thách thức vận may của mình tệ thêm hơn nữa. có gì xảy ra.

      “Được rồi,” . “Bước tiếp theo: Kiểm kê”.

      có thể sử dụng những thứ gì? có chai đựng nước, và thêm nhiều nước từ rãnh nước kia nếu với được đến chỗ đó. thấy con dao của mình. Ba lô của chứa đầy những sợi dây bện đầy màu sắc, máy tính xách tay, cái bản đồ bằng đồng, vài que diêm và ít bánh thánh dùng cho trường hơp khẩn cấp.

      À…rồi. Tất cả đủ cho trường hợp khẩn cấp. lấy bánh thánh ra khỏi ba lô của mình và nhai ngấu nghiến. Như thường lệ, nó có mùi vị hệt như những ký ức dễ chịu. Lần này là bỏng ngô với bơ–cùng xem phim buổi tối với cha ở chỗ ông tại San Francisco, có mẹ kế, em trai cùng cha khác mẹ, chỉ có Annabeth và cha cuộn tròn ghế sofa xem bộ phim hài ngốc nghếch xưa cũ.

      Bánh thánh làm cả cơ thể ấm lên. Cơn đau ở chân chỉ còn ỉ. Annabeth biết rằng vẫn còn gặp rắc rối lớn. Bánh thánh thể chữa lành chỗ xương bị gãy ngay lập tức. Nó chỉ có thể đẩy nhanh tốc độ của quá trình đó, trong tình huống tốt nhất, thể dồn trọng lượng lên chân của mình trong hoặc vài ngày.

      cố gắng với tới con dao, nhưng nó quá xa. nhích từng chút về phía đó. Cơn đau lại bùng lên lần nữa, hệt như những cái móng vuốt đâm xuyên qua chân . Mặt lấm tấm mồ hôi, nhưng sau cú nhích nữa, với tới con dao găm.

      cảm thấy khá hơn khi cầm nó– chỉ bởi ánh sáng hay bảo vệ, mà còn vì nó rất quen thuộc.

      Tiếp theo là gì? Lớp học sinh tồn của Grover nhắc đến điều gì đó như là ở yên tại chỗ và chờ đợi cứu hộ, nhưng chuyện đó xảy ra. Ngay cả khi Percy, lần được theo vết tích của bằng cách nào đó, hang động Mithras cũng sụp đổ.

      có thể thử liên lạc với người nào đó bằng máy tính xách tay của Daedalus, nhưng nghi rằng chả bắt được bất kỳ tín hiệu kết nối nào ở dưới này. Hơn nữa, gọi cho ai đây? thể gửi tin nhắn đến bất cứ ai đủ gần để giúp đỡ. Các á thần bao giờ mang theo điện thoại di động, bởi vì tín hiệu của mấy thứ này thu hút nhiều chú ý, và ai trong số bạn bè ngồi kiểm tra e-mail của mình.

      thông điệp Iris? có nước, nhưng nghĩ rằng có đủ ánh sáng để tạo thành cái cầu vồng. Đồng xu duy nhất mà có là đồng bạc drachma, chả phải cống vật tốt gì cho lắm.

      vấn đề khác với việc kêu gọi giúp đỡ: đây được coi là nhiệm vụ đơn độc. Nếu Annabeth được giải cứu, phải chấp nhận thất bại. Có gì đó với rằng Dấu hiệu Athena còn chỉ dẫn cho nữa. có thể phải lang thang dưới này mãi mãi, và bao giờ tìm thấy bức tượng Athena Parthenos.

      Vậy là… thể ở lại đây và chờ đợi giúp đỡ. Điều đó đồng nghĩa với việc phải tìm cách để tiếp tục mình.

      mở chai nước của mình và uống. nhận ra mình khát đến mức nào. Khi cái chai trống rỗng, bò đến rãnh nước và đổ đầy nước vào chai.

      Nước lạnh và chảy nhanh–dấu hiệu tốt cho thấy nó có thể uống được. đổ đầy cái chai, sau đó vốc ít nước lên mặt. Ngay lập tức cảm thấy tỉnh táo hơn. rửa sạch những vết trầy xước của mình cách tốt nhất có thể.

      Annabeth ngồi dậy và nhìn chằm chằm vào mắt cá chân.

      “Mày phải vỡ hả,” mắng nó.

      Cái mắt cá chân trả lời.

      phải cố định lại nó. Đó là cách duy nhất để có thể di chuyển.

      Hừm…

      giơ con dao găm của mình lên và kiểm tra căn phòng lần nữa dưới ánh sáng màu đồng của nó. Bây giờ gần hơn với cánh cửa mở, thích nó lắm. Nó dẫn vào hành lang im lìm tối đen. khí tỏa ra mùi ngai ngái tởm lợm và có vẻ gì đó xấu xa. may, Annabeth tìm thấy bất kỳ lối nào khác để rời khỏi nơi này.

      Với nhiều lần thở dốc và chớp mắt ngăn nước mắt tràn ra, bò qua đống đổ nát của cái cầu thang. tìm thấy hai tấm ván có hình dạng khá tốt và đủ dài để làm cái nẹp. Sau đó, nhích từng chút tới mấy cái hộp đan bằng liễu gai và sử dụng con dao của mình để cắt đứt các sợi dây da.

      Trong khi cố định mắt cá chân, nhìn thấy vài từ bị mờ trong những cái thùng gỗ: DỊCH VỤ CHUYỂN PHÁT NHANH HERMES.

      Annabeth nhích người cách hào hứng về phía chiếc hộp.

      biết tại sao chúng lại ở đây, nhưng Hermes cung cấp tất cả các công cụ hữu ích cho các vị thần, tinh và thậm chí là các á thần. Có lẽ ông ấy để những cái thùng này ở đây để giúp các á thần như trong nhiệm vụ này.

      cạy nắp thùng ra và lấy vài cái túi xốp hơi, nhưng chẳng có thứ gì khác ở bên trong nữa.

      “Hermes!” phàn nàn.

      ủ rũ nhìn chằm chằm vào những cái túi xốp hơi. Suy nghĩ của thay đổi bất ngờ và nhận ra những cái túi này là món quà. “Ồ…tuyệt!”

      Annabeth bao phủ mắt cá chân bị thương của trong những cái túi xốp hơi. đặt các nẹp gỗ vào và buộc tất cả lại bằng dây da.

      Trước đây, trong lần thực hành sơ cứu, từng nẹp cái chân gãy giả cho người bạn khác trong trại, nhưng bao giờ tưởng tượng được phải làm cái nẹp cho chính mình.

      Đó là công việc khó khăn, đau đớn, nhưng cuối cùng cũng hoàn thành nó. tìm kiếm trong đống cầu thang đổ nát cho đến khi tìm thấy phần của cái lan can– tấm ván hẹp dài khoảng bốn bộ có thể dùng như cái nạng. dựa lưng vào tường, cái chân lành của sẵn sàng, và nâng mình lên.

      “Whoa.” Mắt nổ đom đóm, nhưng vẫn cố đứng thẳng.

      “Lần tới,” thầm với căn phòng tối, “cứ cho tôi chiến đấu với con quái vật. Dễ dàng hơn nhiều.”

      Phía cánh cửa, Dấu hiệu của Athena sáng rực sống động các khung vòm.

      con cú lửa dường như nhìn chờ đợi, như thể muốn : “Vừa đúng lúc. Ồ, muốn những con quái vật? Vậy ngay lối này!”

      Annabeth tự hỏi liệu có phải cái dấu hiệu bằng lửa kia được phỏng theo con cú thiêng . Nếu vậy, khi sống sót, tìm con cú đó và đấm vào mặt nó.

      Suy nghĩ đó vực dậy tinh thần của . vượt qua cái rãnh nước và khập khiễng tiến vào hành lang.

























      The Mark of Athena _ Chương 36


      Annabeth


      ĐƯỜNG HẦM CHẠY THẲNG VÀ PHẲNG, nhưng sau khi ngã, Annabeth quyết định nên liều. bám vô tường và dùng nạng gõ lên sàn hầm trước mặt để chắc chắn là có bẫy gì cả.

      Khi , thứ mùi tanh càng lúc càng đậm hơn và khiến căng thẳng. Tiếng nước chảy dần phía sau . Tay vào đó là điệp khúc khô khan những tiếng thầm như cả triệu tiếng li ti. Chúng có vẻ như tới từ những trong bức tường và to dần lên.

      Annabeth cố tăng tốc nhưng thể nhanh hơn mà mất thăng bằng hay đụng đến cái mắt cá chân. lại khập khiễng , bị thuyết phục rằng có gì đó phía sau mình. Những giọng nho ấy vang lên đồng loạt, tới gần hơn.

      chạm vào tường và tay dính đầy mạng nhện.

      la lên rồi lại tự nguyền rủa vì gây tiếng động.

      Chỉ là cái mạng nhện thôi, tự nhủ. Nhưng làm thế ngăn được tiếng gào thét trong tai .

      đoán là nhện. biết thứ gì ở phía trước: Người thợ dệt. Lệnh bà. Giọng từ trong bóng tối. Nhưng mạng nhện khiến nhận ra bà ta ở gần tới mức nào.

      lau tay lên mặt đá mà nó cứ run run. nghĩ gì thế kia chứ? thể thực nhiệm vụ này đơn độc được.

      Quá muộn rồi, tự nhủ. Phải tiếp thôi.

      từng bước đau đớn xuống hành lang. Tiếng thầm to hơn ở phía sau tới khi nghe chỉ còn như hàng triệu chiếc lá khô xoay vòng trong gió. Mạng nhện dày đặc hơn, phủ kín đường hầm. Chẳng mấy chốc, phải gỡ mạng ra khỏi mặt, xé những cái rèm mỏng như sương quấn lấy như Dây Nhợ Ngớ Ngẩn vậy.

      Tim muốn nhảy khỏi ngực mà chuồn . liều lĩnh hơn, loạng choạng tới trước, cố lờ cái đau ở mắt cá chân.

      Cuối cùng hành lang kết thúc ở ô cửa đầy gỗ xẻ cao ngang thắt lưng. Có vẻ như ai đó cố chặn lối vào. Đó chả phải điềm lành, nhưng Annabeth dùng nạng đẩy mấy tấm ván ra xa hết mức có thể. bò qua cái đống còn lại, dính phải cả tá dằm gỗ bên bàn tay rảnh của mình.

      Bên kia rào chắn là căn phòng rộng cỡ sân bóng rổ. Sàn phòng là tranh khảm kiểu La Mã. Phần còn lại của mấy bức thảm trang trí rủ xuống các bức tường. Hai ngọn đuốc châm ngự hai chân đèn treo tường hai bên lối vào, cả hai phủ đầy mạng nhện.

      Xa xa phía cuối căn phòng, Dấu hiệu Athena cháy lên ở lối vào khác. may, chắn giữa Annabeth với lối vào ấy là vực thẳm rộng năm mươi bộ cắt ngang sàn phòng. Bắc qua miệng hầm là hai dầm gỗ song song, quá xa nhau để đặt cả hai chân nhưng mỗi cái lại quá hẹp để bước lên được, trừ phi Annabeth là diễn viên xiếc, mà lại phải, còn cái mắt cá chân vỡ lại có.

      Hành lang mới qua toàn những tiếng rít réo. Mạng nhện rung lên và nhảy múa khi con nhện đầu tiên xuất : lớn hơn viên kẹo dẻo nhưng tròn trĩnh đen sì, chạy mau những bức tường và sàn phòng.

      Loài nhện gì thế nhỉ? Annabeth biết. chỉ biết chúng đến vì chỉ có vài giây để lập ra kế hoạch.

      Annabeth muốn khóc. muốn ai đó, ai cũng được, ở đây vì . muốn có Leo với kỹ năng điều khiển lửa, hay Jason có tia chớp, Hazel làm sập căn hầm cũng được. hết là muốn có Percy. luôn thấy mình dũng cảm hơn khi có Percy bên cạnh.

      Mình chết ở đây, tự nhủ. Mình gặp lại Percy.

      Những con nhện đầu tiên gần tới cửa. sau chúng là đội quân số lượng lớn- biển đen toàn loài chân bò gớm ghiếc.

      Annabeth khập khiễng tới chỗ chân đèn treo tường và tóm lấy ngọn đuốc. Đầu đuốc được phủ hắc ín cho dễ cháy. Ngón tay nặng như chì nhưng lục lọi ba lô mình và tìm thấy được mấy que diêm. quẹt diêm và thắp cháy đuốc.

      thọc đuốc vào chỗ chướng ngại vật. Củi khô cũ bắt lửa ngay tức . Lửa bén lên mạng nhện và bùng mạnh ra hành lang cháy sáng, nướng chín cả ngàn con nhện.

      Annabeth lùi xa khỏi đống lửa. mua giờ được chút ít, nhưng biết mình giết hết được đám nhện chưa. Chúng hợp lại và tụ bầy ngay khi lửa tắt.

      bước đến mép vực.

      soi đuốc xuống vực, thấy đáy. Nhảy qua là tự sát. có thể cố lấy tay bám vào những thanh dầm mà sang, nhưng tin tưởng vào sức mạnh cánh tay mình và cũng thấy cách nào có thể kéo mình lên với ba lô đầy ụ và cái mắt cá chân vỡ khi sang được bờ bên kia.

      cúi xuống nghiên cứu hai cái dầm. mỗi cái đều có bộ móc sắt tròn dọc phía bên trong, khoảng cách các móc là bàn chân. Có lẽ hai thanh dầm từng là hai bên mặt cây cầu, còn phần ván ở giữa bị bỏ hay phá mất rồi. Còn móc sắt? phải để giữ ván. Giống như…

      liếc nhìn những bức tường. Cùng loại móc được dùng để teo các tấm thảm nát vụn.

      nhận ra hai cái dầm phải là cầu. Đó là loại khung dệt.

      Annabeth ném ngọn đuốc sang bên kia vực. có niềm tin rằng kế hoạch của mình thành công nhưng lấy dây từ ba lô ra và bắt đầu bện vô hai thanh dầm, bện kiểu chơi dây tới tới lui lui từ móc này sang móc khác, tăng gấp đôi gấp ba đường dây.

      Tay chuyển động với tốc độ đáng kinh ngạc. ngừng nghĩ về nhiệm vụ và chỉ làm thôi, vòng và buộc dây, dần dần mở rộng thêm cái mạng dệt của mình miệng vực.

      quên cái đau ở chân và rào lửa cháy hừng hực sau lưng. nhích thêm ra miệng vực. Tấm dệt đỡ sức nặng của . Trước khi biết được điều đó được nửa đường.

      Sao lại học được cách làm thế?

      Là Athena, tự nhủ. Kỹ năng làm đồ thủ công của mẹ mình. Đan dệt chưa bao giờ có vẻ đặc biệt hữu ích với Annabeth–cho tới lúc này.

      liếc về phía sau. Rào chắn rực lửa tắt dần. vài con nhện bò tới quanh ngưỡng cửa.

      Tuyệt vọng, tiếp tục dệt và cuối cùng cũng dệt qua hết miệng vực. tóm lấy ngọn đuốc và dí vô cây cầu dệt. Lửa bén dọc đường dây. Ngay cả hai thanh dầm cũng bắt lửa như thể được ngâm trước trong dầu.

      Thoáng cái, cây cầu cháy thành hình rất hàng những con cú cháy rực. Phải chăng Annabeth dệt thành chuỗi hay thành loại phép thuật nào đó? biết, nhưng khi những con nhện bắt đầu vượt qua, hai thanh dầm cháy vụn và sụt xuống vực.

      Annabeth nín thở. hiểu lý do tại sao những con nhện thể tiến lại chỗ bằng cách trèo lên tường hay trần nhà. Nếu chúng bắt đầu làm vậy phải chạy cho mau và khá chắc là mình thể di chuyển đủ nhanh được.

      Vì lý do nào đó, lũ nhện đuổi theo . Chúng dồn đống ở miệng vực – tấm thảm đen sì sục sôi toàn loài chân bò. Rồi chúng phân tán, ào trở lại hành lang cháy rụi, như thể Annabeth chẳng còn tí gì thú vị nữa.

      “Hoặc mình qua được bài kiểm tra,” lớn.

      Ngọn đuốc lách tách tắt , để lại mình chỉ với ánh sáng từ con dao găm. nhận ra rằng mình vứt cái nạng tạm bợ của mình bên kia vực thẳm.

      cảm thấy kiệt sức và hết xí quách nhưng tâm trí rất tỉnh táo. Mỗi hoảng loạn của dường như cũng cháy rụi cùng cây cầu dệt đó rồi.

      Người thợ dệt, nghĩ. Mình phải tới gần. Ít ra mình biết cái gì ở phía trước.

      xuống hành lang tiếp theo, cố gắng dồn lực xuống bên chân đau.

      phải xa.

      Sau hai sáu mét, đường hầm mở vào cái hang rộng bằng điện thờ, hùng vĩ tới mức Annabeth khó có thể xử lý mọi thứ mà nhìn thấy. đoán đây là căn phòng trong giấc mơ của Percy, nhưng nó tối. Lò than đồng tỏa ánh sáng ma thuật hệt như những cái mà các vị thần dùng Đỉnh Olympus, phát sáng quanh chu vi căn phòng, xen với những tấm thảm trang trí tuyệt đẹp. Sàn phòng bằng đá có vết nứt như mảng băng. Trần nhà cao quá mức, thất tung trong bóng tối và tầng tầng lớp lớp mạng nhện.

      Những sợi tơ dày như những cây cột chạy từ trần nhà tới khắp cả phòng, neo vô các bức tường và sàn như cáp cầu treo.

      Mạng nhện cũng bao quanh trung tâm điện thờ, trông nó đáng sợ tới nỗi Annabeth khó mà ngước mắt nhìn nó được. Lờ mờ phía là bức tượng Athena cao bốn mươi bộ với lớp da ngà phát sáng và váy bằng vàng. đôi tay giang rộng, Athena giữ bức tượng Nike, nữ thần thắng lợi có cánh – bức tượng mà nhìn từ đây có vẻ xíu, nhưng có khi cao bằng người . tay kia Athena tựa tấm khiên to bằng biển quảng cáo với con rắn được khắc ló trộm ra từ phía sau như thể Athena bảo hộ nó.

      Khuôn mặt nữ thần thanh thản, ân cần…và trông giống Athena. Annabeth từng thấy nhiều tượng trước đây mà chẳng giống mẹ chút nào, nhưng bản khổng lồ này, được làm từ hàng ngàn năm trước, khiến nghĩ rằng người nghệ sĩ hẳn gặp Athena bằng xương bằng thịt. Ông tái cách hoàn hảo.

      “Athena Parthenos,” Annabeth lầm bầm. “Nó thực ở đây rồi.”

      Suốt đời mình, muốn đến thăm Parthenon. Giờ thấy điểm thu hút chính của ngôi đền từng nằm ở đó – và là đứa con đầu tiên của Athena làm được thế hàng thiên niên kỷ nay.

      thấy mồm mình há hốc ra. ép bản thân nuốt xuống. Annabeth lẽ ra đứng đây cả ngày mà nhìn bức tượng, nhưng mới thực được có nửa nhiệm vụ. tìm thấy bức Athena Parthenos. Giờ làm sao có thể cứu nó ra khỏi cái hang đây?

      Tơ nhện cuốn lấy nó như cái lều bằng băng gạc. Annabeth ngờ rằng nếu có tấm mạng, bức tượng đổ xuyên qua sàn phòng suy yếu này từ lâu rồi. Khi bước vô phòng, có thể thấy các vết nứt bên dưới rộng đến nỗi có thể lọt chân vô đó. Dưới các vết nứt, chả thấy gì ngoài bóng tối hun hút.

      cơn ớn lạnh lướt qua . Kẻ canh giữ đâu? Làm sao Annabeth có thể giải phóng bức tượng mà làm sụt sàn phòng đây? thể đẩy bức Athena Parthenos xuống hành lang mới vào được.

      nhìn lướt căn phòng, hy vọng thấy được cái gì hữu ích. Mắt lướt qua những tấm thảm đẹp tới mức đau tim. bức là cảnh chăn nuôi rất ba chiều[1], có khi đó là cửa sổ cũng nên. tấm khác là các vị thần chiến đấu với người khổng lồ. Annabeth thấy cảnh ở Địa Ngục. Cạnh đó là đường chân trời của Rome đại. Và tấm thảm bên trái

      nín thở. Đó là bức chân dung hai á thần hôn nhau dưới nước: Annabeth và Percy, ngày bạn bè họ ném họ xuống hồ ca nô ở trại. Nó sống động tới nỗi băn khoăn biết có phải người thợ dệt ở đó, mình trong hồ với chiếc máy ảnh chống thấm nước .

      “Sao có thể thế được?” lẩm nhẩm.

      Phía sâu trong bóng tối, giọng cất lên. “Từ lâu rồi ta biết là ngươi đến, cưng ạ.”

      Annabeth rùng mình. Đột nhiên lại bảy tuổi lần nữa, núp vô chỗ trú , đợi những con nhện tấn công mình trong đêm. Giọng hệt như Percy mô tả: tiếng réo rít giận dữ đa vực, của giống cái nhưng phải con người.

      Trong những tấm mạng phía bức tượng, thứ gì đó chuyển động – thứ gì đó hắc ám và to lớn.

      “Ta từng gặp mi trong mơ,” giọng bảo, tanh hôi và quỷ quái như cái mùi trong đường hầm. “Ta phải đảm bảo rằng ngươi đáng giá, đứa con duy nhất của Athena đủ thông minh qua được những bài kiểm tra của ta và sống sót tới nơi này. vậy, ngươi là đứa con tài năng nhất của mụ. Thế này khiến cái chết của ngươi càng đau đớn hơn đối với kẻ cựu thù của ta khi người thất bại hoàn toàn.

      Cái đau ở mắt cá chân Annabeth chẳng là gì so với nỗi chua xót băng giá tràn ngập mạch máu bây giờ. muốn chạy. muốn nài xin thêm chút xót thương. Nhưng thể tỏ ra yếu đuối – phải lúc này.

      “Bà là Arachne[2],” kêu lên. “Người thợ dệt biến thành con nhện.”

      Vật thể đó hạ xuống, hơn và kinh khủng hơn. “Bị mẹ ngươi nguyền rủa,” bà ta bảo. “Bị tất cả khinh miệt và bị biến thành thứ xấu xa…bởi ta là thợ dệt giỏi hơn.”

      “Nhưng bà thua trong cuộc thi,” Annabeth bảo.

      “Đó là câu chuyện viết nên bởi kẻ thắng cuộc!” Arachne thét lên. “Nhìn tác phẩm của ta mà coi! Tự nhìn coi!”

      Annabeth chẳng cần nhìn. Những tấm thảm là những tấm đẹp nhất từng thấy – tốt hơn của phù thủy Circe và, phải, tốt hơn vài tấm thấy Đỉnh Olympus. tự hỏi biết thực ra có phải mẹ mình thua – nếu bà giấu Arachne và viết lại . Nhưng giờ chẳng quan trọng nữa.

      “Bà canh giữ bức tượng này từ thời cổ xưa,” Annabeth đoán. “Nhưng nó thuộc về nơi này. Tôi đưa nó về.”

      “Ha.” Arachne .

      Kể cả Annabeth cũng phải thừa nhận lời đe dọa của mình quá lố bịch. Làm sao trong vai mắt cá Túi Bóng Xốp có thể đưa bức tượng khổng lồ khỏi căn hầm ngầm chứa nó được kia chứ?

      “Ta e rằng ngươi phải đánh bại ta trước, cưng ạ,” Arachne bảo. “Và than ôi, điều đó là bất khả thi đó.”

      Sinh vật xuất từ những tấm màn tơ và Annabeth nhận ra rằng nhiệm vụ của mình vô vọng. sắp chết.

      Arachne có phần thân là con nhện góa phụ đen[3] khổng lồ với dấu đồng hồ cát đỏ lông lá ở mặt dưới của bụng và đôi lỗ nhả tơ rỉ nhầy. Tám chân khẳng khiu của mụ ta có các ngạnh cong lớn bằng dao găm của Annabeth. Con nhện mà tới gần thêm tí nào nữa thôi, chỉ mùi tanh của nó đủ khiến Annabeth ngất rồi. nhưng phần đáng sợ nhất là khuôn mặt méo mó của mụ.

      Mụ ta hẳn từng là phụ nữ đẹp. Giờ đây hàm đen đúa nhô ra từ miệng mụ như những cái ngà. Những chiếc răng khác thành những cây kim trắng mảnh. Ria mép sắc nhọn tối màu điểm má. Mắt mụ to, có mi và đen huyền với hai mắt hơn nhô ra từ thái dương.

      Sinh vật phát ra những thanh dữ dội rip-rip-rip hẳn là tiếng cười.

      “Giờ ta thưởng thức ngươi, cưng ơi,” Arachne bảo. “Nhưng đừng có sợ làm chi. Ta dệt tấm thảm tuyệt đẹp mô tả cái chết của ngươi.”




      [1] Trong hình học và giải tích toán học, đối tượng hoặc cơ thể ba chiều, có ba kích thước . Tức là mỗi điểm của nó có thể được đặt bằng cách xác định ba số trong phạm vi nhất định. Ví dụ, chiều rộng , chiều dài và chiều sâu.

      gian xung quanh chúng ta là ba chiều bằng mắt thường, nhưng thực có kích thước hơn, do đó, nó cũng có thể được coi là gian bốn chiều nếu chúng tôi bao gồm thời gian là chiều thứ tư. theo lý thuyết Kaluza-Klein ban đầu -thời gian được công nhận là năm chiều (do đó, gian bốn chiều, trong số đó là kích thước gọn hoặc kính hiển vi), lý thuyết dây có ý tưởng này và đề xuất bởi các phiên bản khác nhau gian vật lý có thể có 9 hoặc 10 chiều.

      [2] Arachne là tên thợ dệt tài hoa trong thần thoại Hy Lạp – La Mã. Quá kiêu ngạo với tài năng của mình, khoe khoang rằng tài năng của mình lớn hơn cả nữ thần trí tuệ, và phủ nhận khi những bạn dệt rằng tài năng của mình phần là ban ân của thần linh. Nữ thần đến thăm trong hình dạng bà lão để khuyên nhủ, bị xúc phạm bởi , nữ thần quyết định mở cuộc thi đấu giữa hai thợ dệt. Theo Ovid,[1] Athena rất ghen tị với những tấm thảm tuyệt đẹp của thợ dệt, và có lẽ vì khinh nhờn mà thể khi đưa tình và tội lỗi của chư thần lên mặt thảm, nữ thần xé rách tấm thảm và ném vào mặt . bị biến thành con vật xấu xí, phải dệt vải đời đời. (Arachne trong tiếng Hy Lạp: “ἀράχνη” có nghĩa là con nhện)















      [3]: Nhện góa phụ đen: loài nhện độc thuộc chi latrodectus, sống ở nhiều nơi thế giới. Sở dĩ có tên này là vì con cái của loài nhện này ăn thịt con đực ngay sau khi giao phối. Nhện góa phụ đen có màu đen với vệt hình đồng hồ cát màu đỏ dưới bụng. Chất độc latrotoxin từ vết cắn của loài này là chất đầu độc thần kinh tương đối mạnh, có hại đối với con người vì tuyến nọc độc lớn bất thường, tuy nhiên, cú cắn của loài nhện này hiếm khi giết chết con người nếu vết cắn được chữa trị.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Athena _ Chương 37


      Leo


      LEO ƯỚC GÌ MÌNH GIỎI THẾ.

      , nhiều khi như thế xấu hổ. Nếu cậu rành về đồ cơ khí đến vậy, có lẽ họ chả bao giờ tìm thấy đường trượt bí mật và bị mấy gã kim loại tấn công. Nhưng cậu thể ngăn mình đựợc.

      phần là lỗi của Hazel. Là với siêu giác quan về lòng đất, chẳng giúp được mấy ở Rome. cứ dẫn họ vòng vòng rồi vòng vòng quanh thành phố, chóng hết cả mặt và vòng về tới hai lần.

      “Xin lỗi,” bảo. “Chỉ là … ở đây nhiều lòng đất quá, quá nhiều lớp, làm em thấy choáng váng. Như kiểu đứng ngay chính giữa dàn nhạc và cố chỉ tập trung vào đúng nhạc cụ thôi ấy. Em bị điếc mất.”

      Kết quả là họ có tua du lịch thành Rome. Frank có vẻ hạnh phúc lê theo như chú chó chăn cừu bự con (hmm, Leo tự hỏi cậu ấy có thể biến thành con , hay thậm chí tốt hơn: con ngựa để Leo cưỡi được). Nhưng Leo bắt đầu mất kiên nhẫn. Chân cậu đau, trời nắng nóng và mấy con phố đông nghẹt du khách.

      Quảng trường trông cũng được, nhưng chủ yếu toàn là phế tích mọc đầy lùm bụi và cây cối um tùm. Cần nhiều trí tưởng tượng lắm mới có thể thấy nó là trung tâm sầm uất của Rome Cổ. Leo chỉ xoay sở làm được vì cậu từng thấy Rome mới ở California.

      Họ qua những nhà thờ lớn, những mái vòm đứng bơ vơ, cửa hàng quần áo và cả những hàng ăn nhanh. bức tượng của gã La Mã Cổ Đại nào đó có vẻ như chỉ vào hàng McDonald gần đấy.

      Ở những đường phố lớn hơn, đám xe cộ hoàn toàn phát rồ–mèn đét ơi, Leo cứ nghĩ người ở Houston mới phóng xe như điên chớ– nhưng họ dành phần lớn thời gian lướt qua những con hẻm , ngang qua các đài phun nước và các quán cà phê nơi Leo được phép nghỉ chân.

      “Em chưa từng nghĩ mình được nhìn thấy Rome,” Hazel . “khi em còn sống, ý em là lần đầu ấy, Mussolini[1] nắm quyền. Bọn em có chiến tranh.”

      “Mussolini?” Leo cau mày. “Ổng có phải BFF (best friend forever-bạn thân mãi mãi) với Hitler ?”

      Hazel chăm chăm nhìn cậu như thể cậu là người ngoài hành tinh. “BFF?”

      “Đừng bận tâm.”

      “Em muốn xem Đài phun nước Trevi[2],” .

      “Mỗi dãy nhà đều có đài phun nước,” Leo càu nhàu.

      “Hay Bậc thang Tây Ban Nha,” Hazel bảo.

      “Sao em lại đến Ý để coi Bậc thang Tây Ban Nha hử?” Leo hỏi. “Thế khác gì đến Trung Quốc mà ăn đồ Mexico, phải ?”

      vô vọng,” Hazel phàn nàn.

      nghe câu đó.”

      quay sang Frank và nắm tay cậu như thể Leo tồn tại nữa ấy. “ nào. Em nghĩ mình nên đường này.”

      Frank tặng Leo nụ cười bối rối – như thể quyết định được nên hả hê hay cảm ơn Leo làm thằng đần – nhưng cậu ta hớn hở để Hazel kéo mình .

      Sau khi bộ cả mấy kiếp, Hazel dừng trước nhà thờ. Ít nhất, Leo cho rằng đó là nhà thờ. Khu vực chính có mái vòm lớn. Lối vào có mái nhà hình tam giác, cột La Mã điển hình và dòng chữ vắt ngang đỉnh: M.AGRIPPA[3] gì gì đó.

      “Tiếng latin của Bình tĩnh hở?” Leo suy đoán.

      “Đây là ván cược tốt nhất của tụi mình.” Hazel nghe có vẻ chắc chắn hơn so với cả ngày nay. “Hẳn là có lối bí mật đâu đó bên trong.”

      Các nhóm du lịch túm tụm quanh các bậc thang. Hướng dẫn viên giơ lên các áp phích in màu với các con số khác nhau và giảng bằng hàng tá ngôn ngữ như thể chơi kiểu bingo quốc tế vậy.

      Leo nghe các hướng dẫn viên du lịch Tây Ban Nha vài giây rồi lại với bạn mình, “Đây là Pantheon. Ban đầu nó được xây dựng bởi Marcus Agrippa làm ngôi đền thờ các vị thần. Sau trận hỏa hoạn, Hoàng đế Hadrian xây lại nó, và nó tồn tại hai ngàn năm nay. trong những công trình La Mã được bảo tồn tốt nhất thế giới.”

      Frank và Hazel chằm chằm nhìn cậu.

      “Làm sao biết?” Hazel hỏi.

      sinh ra giỏi.”

      “Điêu vừa thôi,” Frank . “Cậu ấy vừa nghe lén nhóm khách du lịch đó.”

      Leo cười toe. “Có khi là thế. Nào. tìm cái lối bí mật ấy thôi. Mong là chỗ này có điều hòa.”

      Tất nhiên, ĐH[4].

      Mặt tích cực, xếp hàng và mất phí vô cửa nên họ chỉ việc chen lấy đường qua những nhóm du lịch và vô.

      Bên trong khá ấn tượng, xét theo việc nó được xây từ hai ngàn năm trước. Sàn đá cẩm thạch trang trí hình vuông và tròn như ván tic-tac-toe La Mã. gian chính là căn phòng khổng lồ với mái vòm cầu, như kiểu tòa nhà Quốc hội ở Mỹ. Dọc theo bức tường là các điện thờ, tượng, mộ và các thứ khác nhau. Nhưng cái thực bắt mắt là mái vòm phía . Tất cả ánh sáng trong công trình này là từ lỗ mở tròn ngay đỉnh. chùm ánh mặt trời chiếu chếch vô mái vòm và tỏa sáng sàn nhà như thể Zeus kia cầm cái kính lúp và cố rán giòn những con người bé .

      Leo phải kiến trúc sư như Annabeth nhưng cậu có thể đánh giá đúng phần kỹ thuật. Người La Mã xây mái vòm từ các tấm đá lớn nhưng lại khoét rỗng thành hình vuông trong hình vuông. Trông tuyệt. Leo hiểu nó làm cho mái vòm hơn và dễ đỡ hơn.

      Cậu đề cập điều đó với bạn mình. Cậu ngờ rằng họ quan tâm, nhưng nếu Annabeth ở đây, dành ra cả ngày về nó. Nghĩ tới việc ấy khiến Leo tự hỏi biết vụ thám hiểm Dấu hiệu Athena tiến hành tới đâu rồi. Leo chưa từng nghĩ mình cảm thấy thế này, nhưng cậu lo cho tóc vàng đáng sợ đó.

      Hazel dừng ở giữa phòng và quay tròn. “Tuyệt . Ngày xưa, những đứa con của Vulcan[5] bí mật tới đây để thánh hiến những món vũ khí á thần. Đây là nơi vàng Hoàng gia được ban phép.”

      Leo tự hỏi việc đó diễn ra thế nào. Cậu tưởng tượng mớ á thần mặc áo choàng màu tối, cố im lặng lăn chiếc nỏ phóng tiễn cỡ qua ngưỡng cửa trước.

      “Nhưng ta ở đây phải vì cái đó,” cậu đoán.

      ,” Hazel bảo. “Có lối vào – đường hầm dẫn ta tới chỗ Nico. Em linh cảm thấy nó ở rất gần. Em chắc ở đâu.”

      Frank càu nhàu. “Nếu công trình này hai ngàn năm tuổi, rất có thể có kiểu lối mật còn lại từ thời La Mã.”

      Đó là khi Leo mắc sai lầm vì đơn giản là quá giỏi.

      Cậu nhìn quanh nội thất ngôi đền và nghĩ: Nếu mình thiết kế lối bí mật, mình đặt ở đâu?”

      Đôi khi cậu có thể tìm hiểu cách chiếc máy hoạt động bằng cách đặt tay lên mình nó. Cậu cũng học được cách điều khiển máy bay như thế. Cậu sửa rồng Festus bằng cách đó (trước khi Festus bị rơi và thiêu cháy). Có lần cậu thậm chí còn lập trình lại biển quảng cáo điện tử ở Quảng trường Thời Đại thành: QUÝ BÀ NÀO CŨNG THÍCH LEO…tất nhiên là, vô tình thôi.

      Giờ cậu cố cảm nhận cách vận hành của công trình cổ xưa này. Cậu quay tới phía thứ trông như án thờ bằng đá cẩm thạch đỏ với bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh Mary phía . “Ở đó,” cậu .

      Cậu tự tin tiến tới điện thờ. Nó được tạo hình như kiểu lò sưởi với hốc vòm dưới đáy. Lò sưởi được khắc tên hệt nấm mộ.

      “Lối đâu đó quanh đây,” cậu bào. “Nơi an nghỉ cuối cùng của ông này nằm ngay đường. Raphael[6] là ông nào?”

      danh họa, em nghĩ thế,” Hazel .

      Leo nhún vai. Cậu có đứa em họ tên Raphael và cậu cũng chả nghĩ đến cái tên nhiều làm chi. Cậu băn khoăn mình có thể tạo ra thỏi thuốc nổ từ cái thắt lưng dụng cụ và tạo vụ nổ kín đáo , nhưng cậu nhận thấy những người trông nom nơi này có lẽ chấp thuận đâu.

      “Đứng yên…” Leo ngó quanh để đảm bảo họ bị theo dõi.

      Hầu hết các nhóm du lịch trố mắt nhìn mái vòm, nhưng bộ ba khiến Leo khó chịu. Cách đó năm mươi bộ, vài gã trung tuổi thừa cân giọng Mỹ chuyện to tiếng, phàn nàn với nhau về cái nóng. Trông họ như lợn biển[7] bị nhét vô đồ biển – xăng đan, quần đùi bộ, áo phông và mũ rộng vành. Chân họ to tướng, nhão nhoẹt toàn vân nhện[8]. Mấy gã tỏ ra vô cùng buồn chán và Leo tự hỏi tại sao họ lại ở đó.

      Họ quan sát cậu. Leo chắc tại sao họ lại khiến mình căng thẳng. Có khi tại cậu thích heo biển.

      Quên , Leo tự nhủ.

      Cậu lướt quanh ngôi mộ. Cậu vuốt tay dọc xuống mặt sau cây cột La Mã, thẳng xuống tận chân đế. Ngay dưới đế, loạt các dòng chữ được khắc vào đá cẩm thạch – các chữ số La Mã.

      “Hê,” Leo . “ trang nhã cho lắm, nhưng hiệu quả.”

      “Cái gì cơ?” Frank hỏi.

      “Mật mã cho ổ khóa.” Cậu sờ hết mặt sau của cái cột thêm chút và phát ra cái lỗ vuông cỡ cái ổ cắm điện. “Mặt khóa bị tách ra – có lẽ bị đập phá vài lần mấy thế kỷ nay. Nhưng mình có thể kiểm soát được cơ chế bên trong, nếu được…”

      Leo đặt tay lên sàn đá cẩm thạch. Cậu có thể cảm thấy những bánh răng đồng cũ dưới mặt đá. Đồng thông thường bị ăn mòn và sử dụng được từ lâu rồi, nhưng đây là đồng Thiên thai – tác phẩm của á thần. Với chút trí lực, Leo thúc chúng chuyển động, sử dụng những con số La Mã làm chỉ dẫn. Các xi lanh quay – kích, kích, kích. Rồi kích, kích.

      sàn đá cạnh bức tường, phiến đá cẩm thạch trượt xuống dưới phần khác, để lộ lỗ vuông tối thui, chỉ đủ để luồn vô.

      “Người La Mã xưa chắc lắm.” Leo nhìn Frank thẩm định. “Cậu cần biến thành cái gì đó hơn để qua được đây.”

      hay đâu!” Hazel mắng.

      “Gì? thui mà–”

      “Đừng lo cái đó,” Frank lẩm bẩm. “Ta phải đón những người khác trước khi dò xét. Piper thế mà.”

      “Họ cách cả nửa thành phố,” Leo nhắc cậu ta. “Hơn nữa, ờ, mình chắc mở lại cửa sập này lần nữa được đâu. Bánh răng khá cũ rồi.”

      “Tuyệt,” Frank bảo. “Sao ta biết dưới đó an toàn hay chứ?”

      Hazel quỳ xuống. thò tay qua cái lỗ như thể kiểm tra nhiệt độ. “ có thứ gì còn sống…ít nhất là trong vòng vài trăm bộ. Đường hầm dốc xuống rồi lại lên cao hơn và về phía nam, đại loại thế. Em cảm nhận được có cái bẫy nào cả…”

      “Sao em biết được tất mấy thứ đó?” Leo hỏi.

      nhún vai. “Y hệt cái cách nạy mấy ổ khóa chỗ sàn đá cẩm thạch thôi, em đoán thế. vui là cướp ngân hàng.”

      “Ố…kho tiền ngân hàng hử,” Leo . “Chưa từng nghĩ tới vụ đó.”

      “Quên bất cứ cái gì em .” Hazel thở dài. “Coi này, vẫn chưa đến ba giờ. Ít ra ta có thể khám phá chút, cố xác định vị trí của Nico trước khi liên lạc với những người khác. Hai ở đây cho tới khi em gọi. Em muốn kiểm tra mọi thứ, đảm bảo đường hầm có kết cấu vững chắc. Em biết được nhiều hơn khi ở dưới lòng đất.”

      Frank cau mày. “Bọn thể để em mình được. Có thể em bị thương đó.”

      “Frank, em tự coi sóc bản thân được mà,” . “Dưới lòng đất là chuyên địa của em. là an toàn nhất cho cả lũ tụi mình nếu em đầu.”

      “Trừ phi Frank muốn biến thành con chuột chũi,” Leo gợi ý. “Hay con chó đồng cỏ. Mấy con đó hay lắm ế.”

      “Im ngay,” Frank lầm bầm.

      “Hay con lửng.”

      Frank chỉ tay vào mặt Leo. “Valdez, tôi thề–”

      “Cả hai người im ,” Hazel mắng. “Em quay lại sớm. Cho em mười phút. Nếu nghe thấy em lúc ấy…thây kệ. Em ổn thôi. Cố đừng có mà giết nhau lúc em ở dưới đó đấy.”

      tuột xuống hố. Leo với Frank che chắn cho tốt nhất có thể. Họ đứng vai kề vai, cố để trông bình thường như thể hai thằng nhóc choai choai loanh quanh trong lăng mộ Raphael là hoàn toàn tự nhiên.

      Hai nhóm du lịch đến rồi . Phần lớn phớt lờ Leo với Frank. Vài người nhìn họ vẻ dè chừng rồi tiếp. Có lẽ mấy du khách nghĩ họ đòi tiền boa. Vì lí do nào đấy, Leo có thể khiến họ thoái chí khi cậu cười toe cười toét.

      Ba gã lợn biển Mỹ vẫn loanh quanh chỗ giữa phòng. trong số đó mặc cái áo phông ghi ROMA như thể quên mất gã ở thành phố nào nếu mặc nó. Chốc chốc gã lại liếc nhìn Leo với Frank như thể gã thấy diện của họ khó chịu lắm bằng.

      Cái gì đó ở gã kia khiến Leo thấy bực. cậu mong Hazel nhanh nhanh lên.

      ấy chuyện với mình lúc trước,” Frank đột ngột lên tiếng. “Hazel bảo cậu tìm hiểu ra được về mệnh căn của mình.”

      Leo giật mình. Cậu gần như quên khuấy mất Frank đứng ngay cạnh mình.

      “Mệnh căn của cậu … ồ, thanh củi cháy. Phải.” Leo gắng nén lại thôi thúc muốn bung lửa ra tay và hét: Há ha ha! Ý tưởng cũng vui vui đấy chứ, nhưng cậu ác tới mức đó.

      “Nghe này, bạn,” cậu bảo. “Ổn mà. Mình chưa bao giờ làm gì đặt cậu vào nguy hiểm hết. Chúng ta cùng hội cùng thuyền cơ mà.”

      Frank nghịch vơ vơ vẩn vẩn cái huy hiệu bách thống tướng[9] của mình. “Mình luôn biết lửa có thể giết chết mình, nhưng từ khi biệt thự của bà cháy rụi ở Vancouver … việc đó có vẻ hơn nhiều.”

      Leo gật đầu. Cậu thấy thông cảm với Frank nhưng, cậu chàng thoải mái khi về căn biệt thự của gia đình. Kiểu như bảo, Tôi đâm nát cái Lamborghini[10] mất rồivà đợi người ta đến , Ôi, tội nghiệp cưng!

      Tất nhiên Leo thế với cậu ta. “Bà cậu – mất trong vụ hỏa hoạn đấy sao? Cậu vẫn chưa .”

      “Mình – mình biết nữa. Bà ốm và khá già rồi. Bà bảo bà chết vào thời điểm của riêng mình, bằng cách riêng của mình. Nhưng mình nghĩ bà thoát khỏi được vụ cháy. Mình thấy con chim bay lên từ lửa đỏ.”

      Leo nghĩ ngợi về vụ đó. “Thế cả gia đình cậu biết biến hình à?”

      “Mình đoán thế,” Frank bảo. “Mẹ biết. Bà nghĩ việc ấy khiến mẹ mất ở Afghanistan, trong trận chiến. Mẹ cố giúp vài người bạn và…Mình biết chính xác chuyện gì xảy ra nữa. Có quả bom nổ.”

      Leo nhăn mặt cảm thông. “Thế là hai ta đều mất mẹ vì lửa.”

      Cậu định làm thế, nhưng lại kể với Frank toàn bộ câu chuyện đêm ở xưởng khi Gaea ra với cậu và mẹ cậu mất.

      Mắt Frank rưng rưng. “Mình chưa từng thích khi người ta bảo, Rất tiếc chuyện của mẹ cậu.”

      hề có cảm giác lòng chút nào,” Leo tán thành.

      “Nhưng mình rất tiếc chuyện của mẹ cậu.”

      “Cảm ơn.”

      có dấu hiệu gì của Hazel. Mấy du khách người Mỹ vẫn quanh quẩn trong đền Pantheon. Họ có vẻ lượn tới gần hơn, dường như lén lẩn tới gần mộ Raphael mà chú ý vậy.

      “Lúc ở trại Jupiter,” Frank , “Thần giữ nhà của bọn mình, Reticulus, bảo mình có nhiều quyền năng hơn phần lớn các á thần, con trai của Mars, thêm khả năng biến hình bên mẹ nữa. Ổng bảo đó là lý do mệnh căn đời mình lại bị trói chặt vô thanh củi cháy. điểm yếu cực lớn để cân bằng tất cả.”

      Leo nhớ cuộc chuyện với nữ thần báo thù Nemesis ở Hồ Muối Lớn. Bà ta gì đó tương tự về việc muốn cán cân được công bằng. May mắn là giả dối. Thành công thực đòi hỏi phải hi sinh.

      Cái bánh nướng may mắn của bà ta vẫn ở trong thắt lưng dụng cụ của Leo, đợi được mở ra. Cậu sớm phải đối mặt với vẫn đề mà mình giải quyết nổi, dù thế ta có thể giúp cậu…với cái giá.

      Leo ước gì mình có thể bứt ký ức đó ra khỏi đầu và tống nó vô thắt lưng công cụ. nó chiếm quá nhiều gian. “Chúng ta đều có điểm yếu,” cậu . “Ngay mình này. Mình hài hước và đẹp trai tới mức bi kịch.”

      Frank khịt mũi. “Có thể cậu có điểm yếu. Nhưng đời cậu phụ thuộc vào mảnh củi cháy.”

      ,” Leo thừa nhận. Cậu bắt đầu nghĩ: nếu vấn đề của Frank là của mình, cậu giải quyết thế nào đây? Phần lớn mọi lỗ hổng trong thiết kế đều sửa được. “Mình tự hỏi…”

      Cậu nhìn khắp phòng ấp a ấp úng. Ba gã du khách Mỹ tới chỗ họ, còn lượn lờ hay lén lút nữa. Họ tới thẳng mộ Raphael và cả ba nhìn Leo chằm chằm.

      “Ờ, Frank?” Leo hỏi. “Được mười phút chưa thế?”

      Frank nhìn theo ánh mắt cậu. Những khuôn mặt Mỹ giận dữ và lúng túng, như mộng du với cơn ác mộng cực khó chịu.

      “Leo Valdez,” gã mặc áo phông ROMA gọi. Giọng gã đổi khác. Nó trống rỗng và sặc mùi kim khí. Gã Tiếng như thứ ngoại ngữ. “Ta lại gặp nhau nhỉ.”

      Cả ba gã du khách chớp mắt và mắt họ chuyển thành vàng đặc.

      Frank la lên. “Eidolon!”

      Ba gã lợn biển xiết chặt nắm tay lực lưỡng. Thường Leo chả lo bị giết bởi mấy gã thừa cân đội nón rộng vành, nhưng cậu ngờ là tụi eidolon vẫn rất nguy hiểm dù có nhập vô mấy cái xác kia chăng nữa, đặc biệt bởi lũ ám hồn thèm bận tâm vật chủ của chúng sống chết thế nào cả.

      “Bọn chúng lọt vừa cái lỗ đâu,” Leo .

      “Phải,” Frank . “Dưới lòng đất giờ nghe có vẻ tốt.”

      Cậu biến thành con rắn trườn qua mép lỗ. Leo nhảy vô ngay sau cậu khi lũ ám hồn bắt đầu rên thét phía , “Valdez! Giết Valdez!”




      [1]Benito Amilcare Andrea Mussolini (29 tháng 7, 1883 – 28 tháng 4, 1945) là thủ tướng độc tài cai trị phát xít Ý với thể chế quốc gia, quân phiệt và chống Cộng sản dựa hệ thống tuyên truyền và kềm kẹp khắc nghiệt. Mussolini đưa Ý vào liên minh khối Trục của Adolf Hitler chống lại quân Đồng Minh trong đệ nhị thế chiến. Khi khối Trục thua trận, Mussolini toan bỏ trốn sang Thụy Sĩ nhưng ông và vợ bị quân cộng sản kháng chiến Ý bắt giết tại hồ Como.







      [2]Đài phun nước Trevi là 1 công trình ở quận Trevi của Rome, đài phun nước phong cách Ba-rốc lớn nhất thành phố và trong những đài phun nước nổi tiếng nhất thế giới. Nơi đây nổi tiếng với việc người ta tung đồng xu xuống nước và ước nguyện thành thực.







      [3]M•AGRIPPA•L•F•COS•TERTIVM•FECIT viết trước đền Pantheon(Ngôi đền của mọi vị thần, khác với Parthenon chỉ thờ Athena). Dòng chữ có nghĩa là: Marcus Agrippa, con trai Lucius, chấp chính lần thứ ba,dựng nên đền này.







      [4] ĐH= Điều Hòa

      [5]Vulcan là tên La Mã của Hephaestus(tiếng Hy Lạp: Ἥφαιστος, còn gọi là Hephaestus) là vị thần trong thần thoại Hy Lạp. Ông là vị thần của kỹ nghệ, bao gồm nghề rèn, thủ công, điêu khắc, kim loại và luyện kim, và lửa. Thần được thờ phụng trong khắp các trung tâm chế tạo và công nghiệp ở Hy Lạp, đặc biệt ở Athena.







      [6]Raffaello ( 6 tháng 4 hoặc 28 tháng 3 năm 1483 – 6 tháng 4 năm 1520) [1] là họa sĩ và kiến trúc sư nổi tiếng người Ý.







      Mộ Raphael ở Pantheon





      Toàn cảnh Pantheon và mộ Raphael trong phim Thiên thần và Ác quỷ


      (do phim nên quay đẹp hơn bình thường nhiều)


      [7]Lợn biển (họ Lợn biển Trichechidae, chi Trichechus) là loài động vật có vú lớn, sống trong nước biển. Có 3 loài lợn biển còn tồn tại, cùng với cá cúi (Dugong dugong, họ Bò biển Dugongidae) tạo thành bộ Bò biển (Sirenia). Đuôi của nó giống cái giầm, còn đuôi của cá cúi chia hai phần. Phần nhiều thời gian nó tiêu tốn vào việc ăn cỏ trong nước nông.







      [8]Đại loại 1 loại bệnh gì đó xảy ra với mạch máu, khiến các vân mạch nổi da, xanh xanh đỏ đỏ chằng chịt như rễ cây.

      [9]Bách thống tướng là người chỉ huy 100 người dưới trướng trong quân đoàn La Mã

      [10]Automobili Lamborghini S.p.A., thường gọi tắt là Lamborghini, là nhà sản xuất xe hơi thể thao cao cấp (siêu xe hơi) của Ý, có trụ sở tại Sant’Agata Bolognese, gần Bologna. Ngày nay Lamborghini trở thành của nhà sản xuất xe hơi Đức Volkswagen. Lamborghini cũng sát cánh với Ferrari trong công nghiệp xe hơi thể thao của Ý. Công ty được doanh nhân Ý Ferruccio Lamborghini thành lập năm 1963, ông từng sở hữu nhà máy máy kéo khá thành công, Lamborghini Trattori S.p.A.








      The Mark of Athena _ Chương 38


      Leo


      VẤN ĐỀ ĐƯỢC GIẢI QUYẾT: cửa hầm phía họ tự động đóng lại, cắt đuôi những kẻ đeo bám. Nó cũng ngắt ánh sáng, nhưng Leo và Frank có thể xoay sở được. Leo chỉ hy vọng họ cần phải ra bằng lối đó. Cậu chắc liệu cậu có thể dỡ được lớp gạch từ bên dưới hay .

      Ít ra mấy gã lợn biển bị ám ở bên kia. đầu Leo, sàn đá cẩm thạch rung lên, như thể chân của đám du khách gõ lên nó.

      Frank hẳn quay trở lại hình dáng con người. Leo có thể nghe tiếng cậu thở khò khè trong bóng tối.

      “Giờ sao?” Frank hỏi.

      “Được rồi, đừng sợ,” Leo . “Mình triệu hồi chút lửa, chỉ như thế chúng ta mới có thể nhìn thấy.”

      “Cám ơn báo trước.”

      Ngón trỏ của Leo rực cháy lên như cây nến sinh nhật. Trước mặt họ là đường hầm đá dài hun hút với trần rất thấp. Cũng như Hazel đoán, nó dốc xuống, sau đó bằng phẳng trở lại và dẫn về hướng nam.

      “À,” Leo . “Nó chỉ theo hướng thôi.”

      “Tìm Hazel nào,” Frank .

      Leo tranh luận gì về đề nghị đó. Họ tìm đường xuống hành lang, Leo trước với ngọn lửa. Cậu vui mừng khi có Frank ở phía sau, to lớn, mạnh mẽ và có thể hóa thành những con vật đáng sợ trong trường hợp lũ du khách bị ám, bằng cách nào đó, phá vỡ cửa hầm, chen vào trong và đuổi theo họ. Cậu tự hỏi liệu lũ eidolon có thể bỏ lại cái xác, xuyên vào lòng đất và chiếm lấy trong số họ thay thế .

      Ồ, quả là ý nghĩ hay ho cho ngày hôm nay! Leo tự mắng mình.

      Sau khoảng ba mươi mét hoặc hơn, họ rẽ vào góc và tìm thấy Hazel. Trong ánh sáng màu vàng của thanh kiếm kỵ binh, kiểm tra cánh cửa. mãi mê với công việc, cho nên nhận ra có mặt của họ cho đến khi Leo , “Chào.”

      Hazel quay lại, toan vung thanh spatha[1] của . May mắn cho mặt của Leo, lưỡi kiếm quá dài để sử dụng trong hành lang.

      “Các làm gì ở đây?” Hazel hỏi.

      Leo nuốt nước bọt. “Xin lỗi. Bọn đụng phải mấy du khách hung dữ.” Cậu kể cho mọi chuyện xảy ra.

      rít lên trong thất vọng. “Em ghét tụi eidolon. Em tưởng Piper khiến chúng hứa tránh xa chúng ta.”

      “Ồ…” Frank , như như thể cậu vừa có ý nghĩ vui vẻ thường ngày nào đó. “Piper bắt chúng hứa tránh xa con thuyền và chiếm giữ bất cứ ai trong chúng ta. Nhưng nếu chúng theo chúng ta và sử dụng các thân xác khác để tấn công chúng ta, thế là chúng hoàn toàn phá vỡ lời thề…”

      “Tuyệt,” Leo lẩm bẩm. “Eidolon cũng là đám lách luật. Bây giờ muốn giết chúng.”

      “Được rồi, giờ quên chúng ,” Hazel . “Cánh cửa này dễ dàng chiến thắng em. Leo, có thể dùng kĩ năng của để mở khóa ?”

      Leo bẻ các đốt ngón tay. “Vui lòng đứng sang bên nhường đường cho sư phụ.”

      Cánh cửa thú vị, phức tạp hơn cả cái khóa kết hợp chữ số La Mã kia. Toàn bộ cánh cửa được phủ lớp vàng Hoàng Gia. khối cầu máy có kích thước gần bằng trái bowling được gắn vào trung tâm cánh cửa. Khối cầu được cấu tạo từ năm vòng tròn đồng tâm, mỗi cái được khắc những biểu tượng hoàng đạo – bò đực, bò cạp, vân vân – và có những con số và kí tự ngẫu nhiên.

      “Mấy chữ này là tiếng Hy Lạp,” Leo trong kinh ngạc.

      “À, khá nhiều người La Mã tiếng Hy Lạp,” Hazel .

      đoán là vậy,” Leo . “Nhưng tay nghề này… có ý xúc phạm đến Trại Jupiter các cậu, nhưng nó quá phức tạp đối với người La Mã.”

      Frank khịt mũi. “Ngược lại người Hy Lạp các cậu chỉ thích làm mọi thứ trở nên phức tạp.”

      “Này,” Leo phản đối. “Mình chỉ là thiết bị này rất tinh vi, rất công phu. Nó làm mình nhớ đến…” Leo nhìn chằm chằm vào khối cầu, cố gắng nhớ lại nơi mà cậu đọc hay nghe qua về loại máy móc cổ xưa tương tự. “Nó là loại khóa tân tiến,” cậu giải thích. “Cậu phải sắp xếp các biểu tượng các vòng tròn khác nhau theo thứ tự đúng và cánh cửa mở.”

      “Nhưng thứ tự đúng là thế nào?” Hazel hỏi.

      “Câu hỏi hay đấy. Khối cầu Hy Lạp…thiên văn học, hình học…” Leo cảm thấy ấm áp trong lòng. “À, thể nào. Mình tự hỏi…giá trị số pi là bao nhiêu?”

      Frank nhíu mày. “Loại bánh pie nào?”

      “Ý ấy là những con số,” Hazel đoán. “Em học chúng lần trong lớp học toán, nhưng –”

      “Nó dùng để đo vòng tròn,” Leo . “Khối cầu này, nếu nó được làm bởi người mà mình nghĩ đến…”

      Hazel và Frank ngây người nhìn chằm chằm vào cậu.

      “Đừng bận tâm,” Leo . “Mình khá chắc chắn số pi là, uh, 3.1415 blah blah blah. Những con số cứ tiếp tục mãi, nhưng khối cầu này chỉ có năm vòng tròn, như thế là đủ, nếu mình đúng.”

      “Vậy nếu cậu sai?” Frank hỏi.

      “À, sau đó, Leo suy sụp, rồi nổ tung. Hãy tìm hiểu !”

      Cậu quay cái vòng, bắt đầu từ bên ngoài vào trong. Cậu bỏ qua những dấu hiệu hoàng đạo và chữ cái, sắp xếp những con số chính xác để họ có được số pi.

      có gì xảy ra.

      “Mình ngu ngốc,” Leo lầm bầm. “Số pi phải khai triển ra ngoài, bởi vì nó vô hạn.”

      Cậu đảo ngược thứ tự các con số, bắt đầu từ tâm và điều chỉnh tới rìa. Khi cậu xếp vòng tròn cuối cùng, thứ gì đó bên trong khối cầu kêu lách cách. Cánh cửa bật ra.

      Leo tươi cười với các bạn. “Các bạn, đó là cách chúng ta làm mọi thứ trong Thế Giới Leo. Vào trong thôi!”

      “Mình ghét Thế Giới Leo,” Frank thầm.

      Hazel bật cười.

      Bên trong có những thứ đủ hay ho để giữ Leo bận rộn trong nhiều năm. Căn phòng có kích thước bằng xưởng rèn ở Trại Con Lai, với bàn làm việc có chóp đồng dọc theo các bức tường và các giỏ đầy ắp các công cụ làm việc cổ xưa. Hàng tá khối cầu đồng và vàng như mấy quả bóng rổ theo phong cách steampunk[1a] ở nhiều công đoạn tháo dỡ khác nhau đặt quanh. Bánh răng lỏng lẻo và dây điện rải rác sàn. Cáp kim loại dày chạy từ mỗi bàn đến phía sau phòng, nơi có gác xép khép kín như buồng thanh nhà hát. Cầu thang ở hai bên dẫn lên cabin. Tất cả các dây cáp dường như chạy vào trong đó. Cạnh cầu thang bên trái, dãy ngăn chứa đầy cọc hình trụ bọc da – có thể là ống quyển chứa các cuộn giấy cổ.

      Leo sắp tới cái bàn khi cậu nhìn sang bên trái và gần như nhảy khỏi chỗ mình đứng. Đứng ở cửa là hai mô hình cơ thể người bọc sắt – giống như bù nhìn xương được làm từ ống đồng, trang bị đầy đủ áo giáp La Mã, khiên và kiếm.

      bạn.” Leo bước lại gần cái. “Chúng tuyệt vời nếu hoạt động.”

      Frank dịch ra xa mô hình cơ thể người. “Những thứ đó sắp sống dậy và tấn công chúng ta, phải ?”

      Leo bật cười. “Đâu ra. Chúng chưa hoàn chỉnh.” Cậu gõ vào cổ của mô hình gần nhất, nơi dây đồng lỏng lẻo thò ra từ bên dưới giáp che ngực. “Nhìn xem, dây điện đầu bị ngắt kết nối. Và đây, ở khuỷu tay, hệ thống ròng rọc ở khớp bị lệch. Suy đoán của mình hả? Người La Mã cố gắng sao chép mẫu thiết kế của Hy Lạp, nhưng họ có kỹ năng.”

      Hazel hơi rướn lông mày. “Em cho là người La Mã đủ giỏi về khoản phức tạp.”

      “Hoặc tinh vi,” Frank thêm vào. “Hoặc công phu.”

      “Này, mình chỉ những gì mình nhìn thấy thôi mà.” Leo rung đầu của mô hình, làm nó gật gù như thể nó đồng ý với cậu. “Tuy nhiên…đây vẫn là cố gắng khá ấn tượng. Mình nghe về truyền thuyết người La Mã tịch thu các bản văn của Archimedes[2], nhưng–”

      “Archimedes?” Hazel có vẻ bối rối. “Có phải ông ta là nhà toán học cổ đại hay gì gì đó ?”

      Leo bật cười. “Ông ấy còn hơn thế nữa. Ông ấy là con trai nổi tiếng duy nhất của Hephaetus từng sống.”

      Frank gãi tai. “Mình từng nghe cái tên đó trước đây, nhưng làm thế nào mà cậu chắc chắn mô hình này là thiết kế của ông ta?”

      “Đó hẳn là của ông ấy!” Leo . “Nghe này, mình từng đọc tất cả về Archimedes. Ông ấy là người hùng của Nhà số Chín. Ông ấy là người Hy Lạp, đúng ? Ông ấy sống trong những thuộc địa của Hy Lạp ở miền nam nước Ý, trước khi Rome chiếm đóng và cai quản. Cuối cùng người La Mã đến và phá hủy thành phố của ông ấy. Tướng La Mã muốn tha cho Archimedes, vì ông ấy rất giá trị — kiểu như Einstein thời cổ đại – nhưng vài tên lính La Mã ngu ngốc giết chết ông.”

      lại nữa,” Hazel lầm bầm. “Ngu ngốc và La Mã đừng luôn luôn chung như thế, Leo.”

      Frank cằn nhằn tán thành. “Thế nào cũng được, làm thế nào cậu biết tất cả về ông ấy?” cậu hỏi. “Có hướng dẫn viên Tây Ban Nha nào quanh đây ?”

      , bạn,” Leo . “Cậu thể là á thần trong nghề xây dựng mà biết gì về Archimedes. Ông ấy kiệt xuất. Ông tính ra giá trị số pi. Ông ấy làm nên tất cả các công cụ tính toán mà chúng ta dùng trong công trình. Ông ấy phát minh ra đinh ốc thủy lực[3] có thể vận chuyển nước qua đường ống.”

      Hazel cau mày. “Đinh ốc thủy lực. Thứ lỗi cho em khi biết thành tựu tuyệt vờiđó.”

      “Ông ấy còn tạo nên tia chết-chóc từ những tấm gương có thể thiêu cháy thuyền của kẻ địch,” Leo “Có phải đủ tuyệt vời cho các cậu rồi ?”

      “Mình xem thứ gì đại loại như thế TV,” Frank thừa nhận. “Họ chứng minh nó chẳng làm được gì.”

      “À, đó chỉ là vì người phàm đại biết cách sử dụng đồng Thiên Thai,” Leo . “Đó là chìa khóa. Archimedes cũng phát minh cỗ máy to lớn có thể đu lên cần trục và nhổ bật tàu đối phương ra khỏi mặt nước.”

      “Phải, đúng là rất tuyệt,” Frank thừa nhận. “Mình thích trò cánh-tay-tước-đoạt.”

      “À, cứ cho là vậy ,” Leo . “Dù sao nữa, tất cả phát minh của ông ấy là đủ. Người La Mã phá hủy thành phố của ông. Archimedes bị giết. Theo như truyền thuyết, tướng La Mã là fan cuồng các công trình của ông, vì thế ông ta lục soát phân xưởng của Archimedes và lấy mớ đồ lưu niệm đem về Rome. Chúng biến mất khỏi lịch sử, ngoại trừ…” Leo vẫy tay chỉ vào những thứ bàn. “Những thứ này.”

      “Những quả bóng rổ kim loại sao?” Hazel hỏi.

      Leo thể tin được họ đánh giá cao những thứ họ nhìn thấy, nhưng cậu cố gắng kiềm lại tức giận. “Các cậu, Archimedes tạo ra các khối cầu. Người La Mã thể hiểu được chúng. Họ nghĩ chúng chỉ cho biết thời gian hoặc mô phỏng các chòm sao, vì chúng được bao phủ bởi những bức tranh về các vì sao và hành tinh. Nhưng việc đó giống như kiểu tìm thấy khẩu súng trường và nghĩ rằng nó chỉ là cây gậy bộ.”

      “Leo, người La Mã là những kỹ sư hàng đầu,” Hazel nhắc nhở cậu. “Họ xây dựng cống dẫn nước, những con đường–”

      “Vũ khí vây thành[4],” Frank thêm vào. “Hệ thống vệ sinh cộng đồng.”

      “Ừ, được thôi,” Leo . “Nhưng Archimedes mình đẳng cấp. Khối cầu của ông ấy có thể làm tất cả mọi thứ, chỉ là ai chắc chắn…”

      Bỗng nhiên Leo có ý tưởng phi thường đến nỗi mũi của cậu bùng cháy. Cậu dập tắt nó nhanh hết mức có thể. Ôi trời, xấu hổ khi điều đó xảy ra.

      Cậu chạy đến dãy ngăn và xem xét các dấu hiệu ống quyển[5]. “Ôi, thánh thần ơi. Chính là nó!”

      Cậu cẩn thận lấy cuộn trong số đó ra. Cậu giỏi môn Hy Lap Cổ Đại, nhưng cậu có thể dòng chữ cái hộp ghi là Các Khối Cầu Máy.

      “Các cậu, đây là quyển sách thất lạc!” Tay cậu run run. “Archimedes viết nó, mô tả các biện pháp thi công, nhưng tất cả bản sao chép đều bị mất vào thời cổ đại. Nếu mình có thể dịch nó…”

      Các tiềm năng là vô tận. Đối với Leo, nhiệm vụ bây giờ hoàn toàn được đưa sang chiều hướng mới. Leo phải đưa các khối cầu và cuộn giấy ra khỏi đây an toàn. Cậu phải bảo vệ những thứ này cho đến khi cậu có thể đưa chúng trở lại Boong-ke 9 và nghiên cứu chúng.

      “Bí mật của Archimedes,” cậu thầm. “Các cậu, cái này còn quan trọng hơn máy tính của Daedalus. Nếu người La Mã tấn công Trại Con Lai, những bí mật này có thể giải cứu trại. Thậm chí chúng có thể cung cấp cho chúng ta lợi thế để chiến thắng Gaea và bọn khổng lồ!”

      Hazel và Frank nhìn nhau cách nghi ngờ.

      “Được rồi,” Hazel . “Chúng ta đến đây vì cuộn giấy, nhưng em đoán chúng ta có thể đem nó theo cùng.”

      “Tôi cho rằng,” Frank chen vào, “cậu ngại chia sẻ bí mật đó với những người La Mã ngu ngốc đơn giản bọn tôi.”

      “Cái gì?” Leo ngây người nhìn cậu. “. Nghe này, mình có ý xúc phạm – A, đừng bận tâm. Quan trọng là đây là tin tốt!”

      Lần đầu tiên sau bao ngày, Leo cảm thấy tràn trề hy vọng.

      Đương nhiên, đó là khi mọi chuyện trở nên tồi tệ.

      bàn cạnh Hazel và Frank, trong những khối cầu kêu lách cách và vo vo. hàng chân khẳng khiu duỗi ra từ xích đạo của nó. Khối cầu đứng dậy và hai dây cáp bằng đồng bắn ra từ đỉnh đầu, quất vào Hazel và Frank như dây súng phóng điện. Cả hai người bạn của Leo đổ gục xuống sàn.

      Leo lao đến giúp họ, nhưng hai mô hình bọc sắt thể chuyển động xê dịch. Chúng rút kiếm và bước về phía Leo.

      Tên bên trái nghếch chiếc mũ giáp cong cong, hình dạng như cái đầu sói. Bất chấp thực tế là nó có mặt và miệng, giọng trống rỗng quen thuộc phát ra từ mặt nạ của nó.

      “Ngươi thể thoát khỏi bọn ta, Leo Valdez,” nó . “Bọn ta thích ám vô những cỗ máy, nhưng chúng tốt hơn đám du khách. Ngươi chẳng còn mạng mà rời khỏi đây.”




      [1] Spatha: Loại kiếm dài và thẳng, tầm 0.75 đến 1m, được sử dụng trong thiên niên kỷ đầu sau Công Nguyên ở châu Âu và ở lãnh thổ Đế chế La Mã đến năm 600 sau công nguyên. Chúng được dùng trong chiến trận và các trận giác đấu







      [1a] Steampunk là phong cách cổ điển của thế kỷ 19, là giao thoa của công nghệ và lãng mạn. Sử dụng những chi tiết máy móc để tạo những thứ văn hoa, bay bướm.



















      [2] Archimedes của Syracuse (tiếng Hy Lạp: Ἀρχιμήδης) phiên tiếng Việt là Ác-si-mét; khoảng (287 trước Công Nguyên – khoảng 212 trước Công Nguyên) là nhà toán học, nhà vật lý, kỹ sư, nhà phát minh, và nhà thiên văn học người Hy Lạp. Dù ít chi tiết về cuộc đời ông được biết, ông được coi là trong những nhà khoa học hàng đầu của thời kỳ cổ đại. Trong số các cải tiến vật lý của ông có các nền tảng của thuỷ tĩnh, tĩnh học và giải thích nguyên lý đòn bẩy. Ông được coi là người thiết kế những cỗ máy cải tiến, gồm các máy vây thành và bơm xoắn ốc mang tên ông. Các thực nghiệm đại kiểm nghiệm các tuyên bố rằng các cỗ máy của Archimedes thiết kế có khả năng nhấc bổng những chiếc tàu chiến và đốt cháy tàu bằng cách sử dụng mạng lưới gương.















      [3] Còn được gọi là ốc vít Archimedes – cổ máy hình ốc vít hay ốc vít thủy lực dâng nước lên từ thấp đến mực độ cao hơn.







      [4] Các loại vũ khí như nỏ phóng tiễn, súng bắn đá, thang tháp chở binh, máy phá cổng,…







      [5] Cái ống để bảo quản giấy cuộn-sách cuộn hay sách thẻ tre ngày xưa ấy.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :